Theo số liệu mới nhất của chính phủ liên bang Hoa Kỳ, năm 2009, nhập khẩu tôm vào nước này giảm cả về khối lượng và giá trị. Năm 2009, khối lượng nhập khẩu tôm của Mỹ đạt 552,2 nghìn tấn, giảm 2,5% so với năm 2008 (566,5 nghìn tấn), giá trị đạt 3,78 tỷ USD, giảm 7,8% so với đầu năm (4,1 tỷ USD).
Theo số liệu của Cục Nghề cá Biển Quốc gia Mỹ (NMFS), năm 2009, Trung Quốc xuất khẩu hơn 20,4 nghìn tấn tôm bao bột đông lạnh sang Mỹ, trị giá 90,6 triệu USD, giảm so với 21,3 nghìn tấn (92,9 triệu USD) của năm 2008. Xuất khẩu tôm bao bột đông lạnh của Thái Lan sang Mỹ cũng giảm từ 11,1 nghìn tấn năm 2008 xuống 10,9 nghìn tấn, trị giá 70,6 triệu USD.
Năm 2009, Thái Lan đã đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng tôm chế biến sẵn đông lạnh, từ 58,9 nghìn tấn, trị giá 444,9 triệu USD năm 2008 lên 65,3 nghìn tấn, trị giá 492,1 triệu USD năm 2009. Trung Quốc cũng tăng từ 8,8 nghìn tấn lên 11,4 nghìn tấn; Inđônêxia giữ ở mức 8,1 nghìn tấn.
Thái Lan cũng gia tăng xuất khẩu tôm thịt đông lạnh, từ 52 nghìn tấn (394 triệu USD) lên 61,7 nghìn tấn (452,6 triệu USD). Inđônêxia vẫn giữ mức 36 nghìn tấn, nhưng giá trị giảm xuống 262,4 triệu USD. Nhìn chung, Mỹ nhập khẩu 184,6 nghìn tấn tôm thịt đông lạnh năm 2009, trị giá 1,3 tỷ USD, tăng nhẹ so với 183,7 nghìn tấn năm 2008 nhưng giá trị lại giảm so với 1,36 tỷ USD.
Đối với mặt hàng tôm vỏ đông lạnh, theo báo cáo của NMFS, Mêhicô là nhà cung cấp hàng đầu tôm cỡ 15-20 cho Mỹ mặc dù khối lượng xuất khẩu giảm từ 6,7 nghìn tấn (76,4 triệu USD) năm 2009 xuống 5,3 nghìn tấn (49 triệu USD). Thái Lan vẫn giữ mức 3,1 nghìn tấn, trong khi Inđônêxia giảm từ 3,1 nghìn tấn xuống 2,7 nghìn tấn. Như vậy, năm 2009, Mỹ đã nhập tổng cộng 16,7 nghìn tấn tôm cỡ này, trị giá 147,3 triệu USD, giảm so với 21,5 nghìn tấn (220,2 triệu USD) năm 2008.
Tôm cỡ 21-25, Mêhicô đã mở rộng thị phần và trở thành nhà cung cấp chính cho thị trường Mỹ, đưa lượng xuất khẩu từ 12,6 nghìn tấn, trị giá 118,1 triệu USD năm 2008 lên 16,7 nghìn tấn, trị giá 138,7 triệu USD. Thái Lan tăng từ 5,4 nghìn tấn lên 5,5 nghìn tấn, trong khi Inđônêxia giảm mạnh từ 5,7 nghìn tấn (trị giá 45,4 triệu USD) xuống 2,5 nghìn tấn (17,8 triệu USD). Tổng nhập khẩu tôm cỡ này vào Mỹ đạt 30,7 nghìn tấn, trị giá 241 triệu USD, tăng nhẹ so với 30,2 nghìn tấn nhưng giảm về giá trị so với 260,9 triệu USD năm 2008.
Tôm cỡ 26-30, Thái Lan đã vượt Inđônêxia để trở thành nhà cung cấp hàng đầu cho Mỹ, đưa lượng xuất khẩu từ 10,2 nghìn tấn (69,2 triệu USD) lên 11,4 nghìn tấn (71,7 triệu USD). Xuất khẩu của Mêhicô tăng gần gấp đôi từ 4,2 nghìn tấn lên 8,1 nghìn tấn. Tổng khối lượng nhập khẩu của Mỹ đạt 35,6 nghìn tấn, trị giá 239 triệu USD.
Tôm cỡ 31-40, Êcuađo đã xuất khẩu khối lượng lớn nhưng vẫn đứng sau Thái Lan. Xuất khẩu của Thái Lan tăng từ 12,8 nghìn tấn (77 triệu USD) lên 13,8 nghìn tấn (79,9 triệu USD); Êcuador tăng từ 7,8 nghìn tấn lên 10,7 nghìn tấn (60,6 triệu USD); Inđônêxia giảm từ 10,7 nghìn tấn xuống 6,5 nghìn tấn. Tổng khối lượng nhập khẩu tôm cỡ này của Mỹ tăng từ 42,5 nghìn tấn (264,4 triệu USD) lên 45,2 nghìn tấn (266,5 triệu USD).
Tôm cỡ 41-50, Êcuađo trở thành nhà cung cấp hàng đầu của Mỹ với 11,6 nghìn tấn (58,6 triệu USD). Trong khi đó, Thái Lan giảm từ 8,5 nghìn tấn xuống 6,2 nghìn tấn. Tổng khối lượng nhập khẩu vào Mỹ giảm từ 31,5 nghìn tấn (181 triệu USD) năm 2008 xuống 29,1 nghìn tấn (152 triệu USD) năm 2009.
Tôm cỡ 51-60, Êcuađo đã vượt Thái Lan để trở thành nhà cung cấp hàng đầu của Mỹ với lượng xuất khẩu tăng từ 9,9 nghìn tấn (53,3 triệu USD) lên 10,6 nghìn tấn (49,7 triệu USD). Tổng nhập khẩu vào Mỹ giảm từ 31,7 nghìn tấn (173,5 triệu USD) xuống 24,2 nghìn tấn (118 triệu USD).
Tôm cỡ 61-70, Êcuađo vẫn vượt qua Thái Lan mặc dù xuất khẩu giảm từ 7 nghìn tấn (36,8 triệu USD) xuống 5,6 nghìn tấn (24,6 triệu USD). Xuất khẩu của Thái Lan cũng giảm gần một nửa từ 4,2 nghìn tấn xuống 2,9 nghìn tấn, trong khi tổng nhập khẩu tôm cỡ này vào Mỹ năm 2009 đạt 13,2 nghìn tấn, trị giá 63,8 triệu USD, giảm so với 18 nghìn tấn, trị giá 93,1 triệu USD năm 2008.
Tôm cỡ dưới 15, nhập khẩu vào Mỹ giảm từ 23 nghìn tấn (285,1 triệu USD) xuống 18,3 nghìn tấn (204,2 triệu USD), trong đó nhập khẩu từ Việt Nam đạt 5,4 nghìn tấn, trị giá 74,8 triệu USD tăng so với năm 2008 là 4,7 nghìn tấn (63,7 triệu USD); nhập khẩu từ Mêhicô giảm từ 5,3 nghìn tấn (72,2 triệu USD) xuống 3,8 nghìn tấn (37,9 triệu USD).
Tôm cỡ trên 70, Mỹ chỉ nhập 9 nghìn tấn, trị giá 56,2 triệu USD, trong đó nhập khẩu nhiều nhất từ Êcuađo với 3,6 nghìn tấn, trị giá 14,3 triệu USD; nhập từ Thái Lan giảm từ 2,3 nghìn tấn xuống 725 tấn.
(vasep)
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com