Ngày 25/12, Việt Nam và Nhật Bản chính thức ký kết hiệp định đối tác kinh tế (gọi tắt là JVEPA) nhằm tự do hóa thương mại, dịch vụ, bảo hộ đầu tư và hợp tác trong lĩnh vực đào tạo nhân lực giữa hai nước. Rất nhiều mặt hàng VN vào Nhật thuế suất đã được giảm còn 0%, thị trường Nhật đang rộng mở cho hàng Việt.
Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công thương (phó trưởng đoàn đàm phán Chính phủ), cho biết, trên phương diện kinh tế, cùng với những thỏa thuận về thương mại và đầu tư trước đó, Hiệp định VJEPA sẽ góp phần tạo nên một hành lang pháp lý hoàn chỉnh, ổn định, tạo thuận lợi cho các hoạt động thương mại - đầu tư của doanh nghiệp hai bên.
Trong bối cảnh mối quan hệ hữu nghị truyền thống giữa hai nước đang bước sang giai đoạn phát triển mới, việc ký kết Hiệp định VJEPA chắc chắn sẽ góp phần phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của mỗi bên và nâng cao hơn nữa hiệu quả hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư.
Hiệp định qui định 3 nội dung cơ bản là trong vòng 10 năm tới, 92% kim nghạch thương mại hai chiều sẽ được miễn thuế hoàn toàn. Phía Nhật Bản sẽ miễn thuế 95% các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, đồng thời phía Việt Nam cũng đáp ứng miễn thuế 88% mặt hàng xuất khẩu của Nhật Bản.
Mở cửa hơn nữa thị trường cho nông sản xuất khẩu là một trong các lợi ích lớn nhất mà VN thu được từ Hiệp định VJEPA. Theo hiệp định, Nhật Bản sẽ giảm thuế về 0% cho 86% giá trị xuất khẩu nông sản từ VN sang Nhật Bản, trong đó 70% sẽ được thực hiện ngay khi hiệp định có hiệu lực. Đây là mức mở cửa thị trường cao nhất mà Nhật Bản cam kết với một nước ASEAN.
Trong số 30 mặt hàng nông sản mà VN có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất sang Nhật Bản, 23 mặt hàng sẽ được hưởng mức thuế 0% trong vòng tối đa 10 năm. Nhiều mặt hàng ta có thế mạnh như tôm, cua, mật ong, sầu riêng, vải... sẽ được Nhật Bản giảm thuế nhiều hơn so với các nước ASEAN khác.
Các tiêu chuẩn kỹ thuật của thị trường Nhật Bản được áp dụng chung cho hàng hóa của mọi quốc gia, không riêng gì hàng hóa của Việt Nam. Nhận thức rõ yêu cầu của thị trường, lưu ý tới thực trạng hàng hóa của ta, bên cạnh các cam kết về cắt giảm thuế, ta và Nhật Bản đã thảo luận các chương trình hợp tác nhằm nâng cao năng lực cho VN trong lĩnh vực vệ sinh, an toàn thực phẩm (SPS).
Hiệp định có hẳn một chương riêng về hợp tác SPS, theo đó Nhật Bản sẽ hỗ trợ VN thành lập một trung tâm SPS để nâng cao năng lực kiểm định, kiểm dịch cho VN. Ngoài ra, Nhật Bản cũng cam kết sẽ tiếp tục thảo luận về việc hai bên từng bước công nhận tiêu chuẩn của nhau, tạo thuận lợi hơn nữa cho thương mại nông sản giữa hai nước.
Đối với mặt hàng gạo, thì không được đưa vào đàm phán trong hiệp định nên mức thuế và các hàng rào kỹ thuật vẫn không thay đổi. Về vấn đề này thì không chỉ với Việt Nam mà với tất cả các nước đã ký EPA với mình, Nhật Bản chưa bao giờ cam kết giảm thuế cho mặt hàng gạo. Nói chung, mỗi quốc gia đều có những lĩnh vực nhạy cảm riêng, ta cũng vậy mà bạn cũng vậy. Tuy nhiên, với mặt hàng gạo, các doanh nghiệp VN vẫn có thể tiếp tục xuất khẩu sang thị trường này theo các điều kiện thương mại thông thường.
Về nội dung hiệp định có đề cập vấn đề di chuyển thể nhân, trong đó phía Nhật chỉ chấp nhận lao động VN ở một phạm vi hẹp, với nhiều điều kiện khó như: với nghề y tá, lao động VN phải có chứng chỉ quốc gia về y tá của Nhật Bản thì mới được làm việc và hưởng lương như người bản địa. Phía Nhật hiểu nhu cầu của VN trong việc đưa y tá và điều dưỡng viên sang Nhật Bản làm việc lâu dài. Tuy nhiên, do điều kiện của ta có khác so với một số nước ASEAN khác (chưa có tiêu chuẩn quốc gia và hệ thống cấp chứng chỉ quốc gia về hành nghề y tá, chưa có truyền thống cử y tá sang làm việc tại các nước phát triển) nên cách tiếp cận của hiệp định này cũng khác.
Cụ thể, Nhật Bản cam kết dành cho ta một khoản ODA để đào tạo mỗi năm 200-300 y tá tại Nhật Bản. Sau khi có chứng chỉ, họ có thể ở lại Nhật làm việc tới bảy năm. Cùng với đó, Nhật Bản sẽ hỗ trợ ta xây dựng hệ thống kiểm định và cấp chứng chỉ hành nghề, trong đó có cả nghề y tá. Nhật cũng đồng ý trong vòng một năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực, sẽ nối lại đàm phán về di chuyển thể nhân với VN để cải thiện điều kiện tiếp cận thị trường cho y tá, điều dưỡng viên và các ngành nghề khác.
Xét về dài hạn, đây là cách tiếp cận có lợi. Trong thời gian chờ xây dựng hệ thống tiêu chuẩn và cấp chứng chỉ hành nghề, ta vẫn có thể cử người sang Nhật học nghề và sau đó là hành nghề. Cơ chế này còn giúp ta có được một lực lượng lao động chất lượng cao, có thể làm việc tại nhiều nước phát triển khác chứ không riêng Nhật Bản.
VN đang xuất siêu sang Nhật, nhưng có ý kiến cho rằng cán cân này sẽ ngược lại khi hiệp định được thực thi do chúng ta đã “mở cửa” quá rộng, đưa ra quá nhiều thuế suất 0% cho hàng công nghiệp của Nhật Bản. Theo Vụ Trưởng, đàm phán là có đi, có lại. Ta muốn mở cửa thị trường của người khác thì cũng phải cân nhắc mở cửa thị trường của mình, miễn sao thu được kết quả đàm phán cân bằng, chấp nhận được cho cả hai bên. Nguyên tắc cơ bản trong đàm phán thuế công nghiệp với Nhật Bản là đưa ra lộ trình giảm thuế dài hơn cho những ngành mà ta đã có sản xuất hoặc có khả năng sản xuất trong tương lai gần, tạo điều kiện cho những ngành này có thêm thời gian nâng cao sức cạnh tranh trước khi mở cửa hoàn toàn. Một số lĩnh vực quá nhạy cảm thì giữ nguyên thuế, hoặc nếu có giảm chỉ giảm một phần. Bên cạnh đó, cũng phải tính đến tác động có lợi từ việc giảm thuế cho những sản phẩm công nghiệp của Nhật Bản mà doanh nghiệp của ta thật sự cần. Theo tôi, kết quả đàm phán cuối cùng là khá cân bằng và có lợi cho cả hai bên.
Về hàng hóa, biên độ mở trong Hiệp định VJEPA là lớn hơn so với cam kết khi gia nhập WTO. Điều đó cũng đúng thôi vì VJEPA là hiệp định thương mại tự do, về nguyên tắc phải có độ mở lớn hơn WTO, cả với ta và Nhật Bản. Bạn cũng phải mở cửa hơn so với những gì mà bạn đã cam kết với WTO chứ không riêng gì ta.
Về dịch vụ, cam kết của ta cơ bản giống với cam kết khi gia nhập WTO. Ngược lại, Nhật Bản dành cho ta cam kết cao hơn rất nhiều so với cam kết mà Nhật đã đưa ra tại WTO. Về lâu dài, khi các nhà cung cấp dịch vụ của VN đã lớn mạnh, họ sẽ thu được nhiều lợi ích từ những cam kết này.
Nhà nước đàm phán các hiệp định để khai phá thị trường. Tuy nhiên, đó mới là điều kiện cần. Điều kiện đủ vẫn thuộc về doanh nghiệp. Hy vọng các doanh nghiệp Việt Nam sẽ khai thác được các cơ hội do Hiệp định VJEPA mang lại. Với việc Nhật xóa bỏ hàng rào thuế, họ sẽ có cơ hội để cạnh tranh về giá với các đối thủ khác trên thị trường Nhật.
Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào giá, lợi thế cạnh tranh sẽ không bền. Điều cốt lõi vẫn phải là nâng cao năng lực quản trị, năng lực cạnh tranh và chất lượng sản phẩm, những yếu tố bảo đảm thành công ổn định, lâu dài. Hiệp định là nấc thang đưa bạn lên một vị trí mới thuận lợi hơn, nhưng có trụ lại được ở vị trí đó và phát triển tiếp hay không lại phụ thuộc nhiều vào chính bạn.
Về phía mình, Bộ Công thương sẽ phối hợp với các bộ, ngành để phổ biến rộng rãi nội dung của hiệp định, giúp các tổ chức, doanh nghiệp hiểu rõ hơn, từ đó tận dụng được các cơ hội mà hiệp định đem lại. Dự kiến năm 2008, kim ngạch thương mại hai nước sẽ đạt trên 15 tỷ USD, vượt 2 năm so với thời hạn 2010 mà lãnh đạo cấp cao hai nước đề ra.
Trạng thái xuất siêu trong tháng 7 đã không thể kéo dài thêm. Trong nửa đầu tháng 8, cán cân thương mại hàng hóa quốc tế của Việt Nam lại ghi nhận mức thâm hụt xấp xỉ 256 triệu USD, theo số liệu của Tổng cục Hải Quan.
Ghi lại ý kiến của ông Yoshida Sakae, Giám đốc điều hành Văn phòng TPHCM của Tổ chức Thúc đẩy ngoại thương Nhật Bản (Jetro), về cách thức làm ăn với người Nhật và thâm nhập thị trường Nhật tại hội thảo “Hội nhập kinh tế thế giới”, do Công ty Điện tử Minh Trân tổ chức tuần qua.
Hiện số lượng các sản phẩm của Việt Nam vào thị trường Hồi giáo còn quá ít, do các doanh nghiệp chưa có nhiều thông tin cũng như chưa quan tâm đúng mức đến việc phát triển các sản phẩm đáp ứng yêu cầu.
Trung Quốc vẫn là một thị trường trọng điểm hàng đầu và là đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam. Với một thị trường tiềm năng lớn như vậy, DN VN sẽ có nhiều cơ hội để phát triển những mặt hàng chủ lực. Song, thị trường này vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Sau thảm hoạ động đất và sóng thần tháng 3-2011, nhu cầu tiêu dùng của Nhật Bản bị sụt giảm trong ngắn hạn, nhưng dự báo sẽ tăng mạnh đối với một số hàng hoá trong thời gian khoảng một năm sau đó.
Nhằm giúp các nhà sản xuất và xuất khẩu của các nước ASEAN đẩy mạnh hơn nữa việc xuất khẩu các hàng thực phẩm và đồ uống vào thị trường Nhật Bản, Trung tâm Xúc tiến Thương mại, Đầu tư và Du lịch ASEAN - Nhật Bản (AJC) vừa cho đăng tải lên trang web thông tin về “Qui trình nhập khẩu hàng thực phẩm và đồ uống từ các nước ASEAN vào thị trường Nhật Bản".
Liên minh châu Âu (EU) ngày 22/12 đã tiếp tục đợt khiếu nại mới lên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đối với lệnh trừng phạt mà Mỹ và Canađa áp đặt với EU do khối này cấm nhập thịt bò có chứa hoócmôn tăng trưởng từ hai nước này .
Xuất xứ hàng hoá là một trong những nội dung rất được Hải quan Nhật Bản quan tâm, năm 2007, trong số 18 triệu tờ khai Nhập khẩu (trị giá khoảng 600 tỉ USD), 15 triệu tờ khai Xuất khẩu (trị giá khoảng 700 tỉ USD), Hải quan Nhật đã phát hiện 1.04 triệu sản phẩm vi phạm thông qua việc kiểm tra nghiệm ngặt về xuất xứ hàng hoá.
Bộ Thương mại Mỹ (DOC) đã huỷ bỏ việc xem xét hành chính giai đoạn từ 1/2/2007 đến 31/1/2008 đối với 166 nhà cung cấp tôm nước ấm Ấn Độ và 29 nhà cung cấp Thái Lan.
Do cơ cấu hàng hoá của Việt Nam và ASEAN có nhiều điểm giống nhau, nhưng Việt Nam ở trình độ phát triển thấp hơn nên hàng hoá của Việt Nam chưa thâm nhập được nhiều vào thị trường này. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường ASEAN có xu hướng tăng chậm, trong khi kim ngạch nhập khẩu từ ASEAN tăng tương đối nhanh nên nhập siêu từ khu vực này đang có xu hướng tăng mạnh.
Với việc Bộ Tài chính chính thức bỏ thuế tuyệt đối thuế xuất khẩu các loại phân bón (4.000-5.000 đ/kg) kể từ ngày 15/12, các doanh nghiệp kinh doanh phân bón có thể tiến hành xuất khẩu số hàng ế đọng trong nước để thu hồi vốn.
Đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng Việt Nam có thế mạnh vào các nước Trung Đông có nhu cầu cao như hàng nông sản, thực phẩm, thủ công mỹ nghệ, hàng công nghệ. Đây là mục tiêu quan trọng vừa được Bộ Công thương ban hành trong chương trình hành động thực hiện Đề án thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Trung Đông của Chính phủ giai đoạn 2008 - 2015.
Khi kinh doanh tại các thành phố lớn ngày càng cạnh tranh gay gắt cùng nhu cầu tiêu dùng giảm, các đại gia điện máy đã mở cuộc "tiến quân" về tỉnh lẻ để “chiều” người dân ở quê.
Nhóm hàng điện tử viễn thông vẫn dẫn đầu nhóm ngành hàng xuất khẩu có “hàm lượng” FDI cao nhất và giá trị xuất khẩu thuộc hàng cao nhất. Tuy nhiên, hàm lượng FDI trong top 10 đã có sự sụt giảm đáng kể.
Tiểu thương tại đây hàng năm đều cam kết về nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm, không bán hàng lậu và hàng nhái. Tuy nhiên, phần lớn đều cho rằng điều này rất khó khả thi.
Cục thống kê Tp.HCM vừa công bố chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2014 của thành phố đã tăng 0,12% so với tháng trước và tăng 5,47% so với cùng tháng năm trước. Như vậy, tính từ đầu năm, CPI đã tăng 1,22%, cao hơn gấp đôi mức tăng của năm 2013 (0,66%).
Hiện nay, cuộc xâm lấn của hàng giả đã khiến người ta phải nhìn nhận lại tiêu chí của sự xa xỉ và khiến nhà chức trách các nước trên thế giới đau đầu tìm cách dẹp bỏ.
Thành tích xuất khẩu của Việt Nam lẽ ra sẽ còn cao và hiệu quả hơn nữa nếu quản lý nhà nước khắc phục được những hạn chế về cơ sở hạ tầng, tệ tham nhũng, tính khó tiên liệu của chính sách, và tạo giá trị gia tăng cho hàng hoá.
Bằng nhiều cách, hàng hóa Thái Lan đang ngày càng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam và trong tương lai không xa có thể là một thách thức lớn cho hàng Việt.
Giá cá trên thị trường toàn cầu đã tăng lên mức cao nhất mọi thời đại do Trung Quốc có nhu cầu ngày càng lớn đối với những loại hải sản cao cấp như cá ngừ và hàu, trong khi sản lượng đánh bắt có chiều hướng giảm sút.
Các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá bán lẻ ở Việt Nam vẫn là lĩnh vực hấp dẫn nhất. Dù không như đồn đoán ban đầu các tập đoàn lớn sẽ tràn vào nuốt chửng thị trường Việt Nam, nhưng chỉ nhìn vào tốc độ mở rộng của Big C, Metro, Lotte... vừa qua cho thấy sức ép cạnh tranh đang nóng lên từng ngày.
Lại tương tự giá thuốc, giá thực phẩm chức năng cũng đang “nhảy múa thoải mái” khi giá mua vào với giá bán ra chênh nhau tới cả chục lần! Thị trường thực phẩm chức năng đang phát triển mạnh mẽ. Nhưng các quy định về quản lý thực phẩm chức năng đang tỏ ra quá lạc hậu. Phần quản lý giá của mặt hàng này đang bị thả nổi hoàn toàn.
Tháng 4, nhập khẩu đạt con số 6,95 tỷ USD, đưa tổng kim ngạch nhập khẩu 4 tháng qua lên hơn 24,8 tỷ USD. Với kim ngạch xuất khẩu 4 tháng là 20,1 tỷ USD, như vậy, nhập siêu những tháng đầu năm đã lên khoảng 4,7 tỷ USD, tương đương với hơn 23% kim ngạch xuất khẩu. Với cách làm như hiện nay, các chuyên gia cho rằng, mục tiêu kiềm chế nhập siêu dưới 20% trong năm nay là rất khó.
Mark Zimmeran – cựu cố vấn Chủ tịch Phòng thương mại của Mỹ ở Nhật Bản đã viết trong cuốn sách nổi tiếng “Làm ăn với người Nhật như thế nào” của ông: “việc nghiên cứu kỹ càng và nghiêm túc tâm lý người Nhật và cấu trúc xã hội của nước Nhật là cực kỳ cần thiết cho việc làm ăn có hiệu quả với người Nhật”.
Kim ngạch xuất khẩu quý I/2010 ước đạt 14 tỷ USD, giảm 1,6% so với cùng kỳ 2009. Kim ngạch nhập khẩu 3 tháng ước đạt 17,525 tỷ USD, tăng 37,6% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu cần nhập khẩu tăng 35,3%; nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu dự báo tăng khoảng 60,2% và nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu cũng tăng 33% so với cùng kỳ năm ngoái.
Sự phục hồi của kinh tế trong nước sẽ khiến nhu cầu nhập khẩu hàng hóa tăng, đặc biệt việc thực hiện giải ngân vốn FDI được dự báo tăng cao sẽ khiến nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ cho hoạt động đầu tư, xây dựng và sản xuất cũng sẽ tiếp tục gia tăng mạnh. Dự báo kim ngạch nhập khẩu năm 2010 ước đạt 74,5 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2009.
Hiệp định tự do thương mại ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) về nguyên tắc có hiệu lực từ 01/01/2010, có lộ trình cắt giảm tới gần 7.000 dòng thuế. Indonesia đã yêu cầu đàm phán lại với TQ về việc hoãn thực thi ACFTA. Việt Nam hầu như vẫn chưa có một bộ hàng rào kỹ thuật đầy đủ cho các ngành sản xuất trong nước. Mối lo nhập siêu gia tăng từ TQ và mối lo nhiều Doanh nghiệp VN mất thị trường nội địa là có cơ sở....
Theo Tổng cục Thống kê, nhập siêu năm 2009 ước tính lên tới 12,246 tỷ USD, con số này thấp hơn nhiều mức nhập siêu thực hiện lên tới 18,029 tỷ USD của năm 2008, nhưng tăng gần 250 triệu USD so với mục tiêu đề ra.
Để nâng cao giá trị gia tăng cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, góp phần phát triển bền vững nền kinh tế trong quá trình tham gia chuỗi giá trị cung ứng toàn cầu với những tiêu chuẩn ngày càng ngặt nghèo mà thị trường đặt ra, thì Việt Nam còn nhiều việc phải làm...
Xuất khẩu khoảng 25% tổng sản lượng gạo hàng năm, nhưng giá gạo xuất khẩu của Việt Nam ngày càng tụt dốc quá xa so với của Thái Lan trong thời gian qua, và những người nông dân vẫn không được hưởng lợi tương ứng với công sức của mình bỏ ra,....