Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Đặc điểm của ngân hàng trung ương ở một số nước và Việt Nam

Ngân hàng trung ương (Central Bank) ở bất cứ quốc gia nào đều là một trong những cơ quan có vị thế cực kỳ quan trọng, là ngân hàng đứng đầu trong hệ thống ngân hàng. Đặc điểm nổi bật của ngân hàng trung ương là nó không giao dịch, làm nghiệp vụ trực tiếp với các nhà kinh doanh và công chúng, khách hàng của nó là tất cả các ngân hàng khác. Ngân hàng trung ương giữ vai trò là ngân hàng của các ngân hàng; bảo quản quỹ dự trữ tiền tệ của các ngân hàng; cho các ngân hàng vay vốn khi cần thiết, thực hiện chính sách tiền tệ tín dụng của nhà nước; cơ quan phát hành tiền tệ trong nước; thanh toán và tín dụng quốc tế với ngân hàng trung ương các nước khác; là cơ quan cung cấp tiền cho ngân sách khi cần và làm một số nghiệp vụ của kho bạc nhà nước.
   

Mỹ

Hệ thống Dự trữ Liên bang (Federal Reserve System) có chức năng như một ngân hàng trung ương, mặc dù chính thức nó không phải là một ngân hàng mà chỉ chịu những ảnh hưởng hạn chế của nhánh hành pháp và lập pháp. Hệ thống này được thành lập ngày 23 tháng 12 năm 1913, nhằm đưa ra trong nước một đồng tiền linh hoạt, tạo điều kiện dễ dàng cho việc chiết khấu các thương phiếu và cải thiện việc giám sát hoạt động ngân hàng, từ đó trách nhiệm của Hệ thống đã được mở rộng. Qua nhiều năm, người ta đã nhận thấy rằng, sự ổn định và tăng trưởng nền kinh tế, mức độ bảo đảm tình trạng có việc làm cao, sự ổn định về mãi lực đồng đô la Mỹ và sự cân bằng hợp lý trong giao dịch với những nước khác, là những mục tiêu đầu tiên trong đường lối kinh tế của Nhà nước.
 

Tòa nhà Ngân hàng Trung ương Trung Quốc

Hệ thống Dự trữ Liên bang bao gồm Hội đồng các Thống đốc (Board of Governors), 12 ngân hàng dự trữ khu vực (District Reserve Bank) và các văn phòng chi nhánh, Uỷ ban thị trường Công khai Liên bang (Federal Open Market Committee, FOMC). Nòng cốt của hệ thống là Hội đồng 7 Thành viên Thống đốc ở Washington. Các thành viên này được Tổng thống chỉ định và được Thượng viện tán thành với nhiệm kỳ 14 năm. Tổng thống cũng chỉ định Chủ tịch và Phó Chủ tịch của Hội đồng này trong số các thành viên của Hội đồng với nhiệm kỳ 4 năm, sau đó có thể thay mới. Từ tháng 6 năm 2001, các thành viên của Hội đồng gồm: Alan Greespan, Chủ tịch; Roger W.Ferguson Jr, Phó Chủ tịch; Edward W. Kelly Jr, Laurence H. Meyer và Edward M. Gramlich; còn hai chỗ trống. Hội đồng này làm việc dựa trên nguyên tắc tập thể đưa ra chủ trương chính sách.

Ngoài những trách nhiệm này, Hội đồng còn giám sát ngân sách và hoạt động của các ngân hàng dự trữ, thông qua chỉ định những Thống đốc các ngân hàng đó và chỉ định 3 người trong Ban Giám đốc của mỗi ngân hàng khu vực, cả Chủ tịch và Phó Chủ tịch của mỗi ngân hàng dự trữ. 12 ngân hàng dự trữ này và các văn phòng chi nhánh hoạt động như những bộ phận phân quyền của Hệ thống, thực hiện những công việc hàng ngày như lưu thông tiền tệ và cung cấp các chức năng của cơ quan tài chính và những dịch vụ thuộc cơ chế chi trả. Các ngân hàng khu vực đóng tại Boston, New York, Philadelphia, Cleveland, Richmond, Atlanta, Chicago, ST. Louis, Minneapolis, Kansas City, Dallas và San Francisco.

Chức năng chính của Hệ thống là chủ trương chính sách tiền tệ được kiểm soát bằng 3 công cụ: nhu cầu dự trữ, tỷ lệ chiết khấu và hoạt động của thị trường công khai. Những nhu cầu dự trữ thống nhất do hội đồng đưa ra được áp dụng cho các tài khoản giao dịch và tiền gửi có kỳ hạn của pháp nhân tại các tổ chức nhận tiền gửi. Trách nhiệm đưa ra tỷ lệ chiết khấu (lãi suất mà các tổ chức tiền gửi có thể vay tiền tại các ngân hàng dự trữ) được Hội đồng Thống đốc và các ngân hàng dự trữ cùng chia sẻ. Những thay đổi về tỷ lệ chiết khấu do từng ban giám đốc của các ngân hàng dự trữ đưa ra và phải được Hội đồng Thống đốc thông qua. Công cụ quan trọng nhất của chính sách tiện tệ là những hoạt động thị trường công khai (mua và bán các trái khoán nhà nước).

Trách nhiệm ảnh hưởng tới phí tổn tiền tệ và tính khả cung tiền tệ và tín dụng thông qua việc mua và bán các trái khoán nhà nước là của Uỷ ban Thị trường Công khai Liên bang (FOMC) - gồm 7 thành viên của Hội đồng Thống đốc, Chủ tịch ngân hàng dự trữ liên bang New York và 4 Chủ tịch của các ngân hàng dự trữ liên bang khác, mỗi người phục vụ nhiệm kỳ một năm. Uỷ ban này căn cứ vào những quyết định về sự phát triển, triển vọng kinh tế và tài chính mà xác định những mục tiêu tăng trưởng hàng năm với các biện pháp chủ yếu là cung cấp tiền tệ và tín dụng. Những quyết định của Uỷ ban này do Phòng Nội thương (Domestic Trace Deck) của ngân hàng dự trữ liên bang New York tiến hành. Đạo luật Dự trữ Liên bang (Federal Reserve Act) quy định một Hội đồng Cố vấn Liên bang (Federal Adviory Council), gồm mỗi khu vực dự trữ liên bang một thành viên do ban giám đốc của một trong 12 ngân hàng dữ trữ khu vực bầu ra hàng năm, và họp với Ban lãnh đạo Dự trữ Khu vực bầu ra hàng năm. Hội đồng này họp với Ban lãnh đạo Dự trữ Liên bang (Federal Reserve Board) mỗi năm 4 lần để bàn về những bối cảnh công việc, tài chính đồng thời đưa ra những đề xuất cố vấn. Hội đồng Cố vấn Tiêu dùng (The Consumer Adviory Council) là một tập thể pháp định gồm những đại biểu của khách hàng tiêu dùng và của bên cho vay, sẽ tư vấn cho Hội đồng Thống đốc về việc thực hiện những quy định đối với người tiêu dùng và những vấn đề khác có liên quan đến người tiêu dùng. Sau khi Quốc hội thông qua Đạo luật Kiểm soát tiền tệ (Monetary Control Atc) năm 1980 thì Hội đồng Thống đốc của Hệ thống Dự trữ Liên bang thành lập Hội đồng Cố vấn các Quỹ Tiết kiệm (Thrift Institution Advisory Council) để cung cấp thông tin và những triển vọng về nhu cầu đặc biệt và các vấn đề của các Quỹ Tiết kiệm. Nhóm này gồm những đại biểu của các ngân hàng tiết kiệm tương hỗ, các hiệp hội tiết kiệm và cho vay, các quỹ tín dụng.

Đức

Ngân hàng trung ương là Bundesbank, đây là ngân hàng độc lập nhất với chính phủ. Quyền hạn và nghĩa vụ của Bundesbank được quy định trong hiến pháp liên bang, ưu tiên việc đảm bảo tiền tệ bằng cách chống lạm phát và trợ giúp chính sách của Chính phủ. Bundesbank có một Chủ tịch do Hội đồng ngân hàng bổ nhiệm theo ý kiến của Chính phủ. Hội đồng ngân hàng gồm 21 thành viên là đại diện từ các ngân hàng vùng, Chính phủ và các quản trị viên ngân hàng. Hội đồng họp thường xuyên 2 tuần một lần.

Trung Quốc

Ngân hàng trung ương có nhiều nhiệm vụ to lớn, trong đó đặc biệt quan trọng là việc quản lý dự trữ ngoại hối. Tính đến cuối quý 1 năm 2007, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc đã lên tới hơn 1.200 tỉ USD, đưa Trung Quốc trở thành quốc gia có lượng dự trữ ngoại hối lớn nhất thế giới. Số ngoại hối dự trữ của Trung Quốc chủ yếu được đầu tư vào trái phiếu chính phủ nước ngoài, tập trung vào các trái phiếu có mức độ tín nhiệm cao.

Việt Nam

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được thành lập tháng 5/1951, lúc đầu có tên là Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, đến năm 1960 đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Đây là cơ quan cấp Bộ, trực thuộc Chính phủ, là Ngân hàng Trung ương của nước ta. ở Việt Nam, Ngân hàng Trung ương có chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng, quản lý nhà nước các dịch vụ công và thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tới doanh nghiệp có vốn Nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện có hơn 10 vụ như : Vụ Chính sách Tiền tệ, Vụ Chiến lược phát triển Ngân hàng, Vụ Hợp tác Quốc tế, Vụ Quản lý Ngoại hối, vụ các Tổ chức tín dụng hợp tác… Hiện nay, có ý kiến cho rằng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần phải cải cách mới có thể thực hiện tốt được chức năng và vai trò là Ngân hàng Trung ương của mình./.
    

(Trần Đình Tuấn - Tạp chí kinh tế và dự báo)

  • Cựu phó thủ tướng Vũ Khoan:Cảnh giác với âm mưu phân ly, chia rẽ
  • Cựu phó thủ tướng Vũ Khoan: Cuộc dàn xếp giữa các nước lớn
  • Từ vụ cầu Ghềnh tới mô hình PPP
  • Bài cuối: Chảy máu tiền tỉ
  • Bài 2: Tiền vẫn chảy đi
  • Chính sách công ở Việt Nam: Lý luận và thực tiễn
  • “Tam nông” trong quá trình phát triển Khu công nghiệp ở Việt Nam
  • Đẩy mạnh phát triển công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam
  • Ninh Bình quyết tâm thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2006 - 2010
  • Khu Công nghiệp Tàu thuỷ Lai Vu: Tiềm năng, lợi thế và triển vọng phát triển
  • Phân vùng và quy hoạch
  • Chính sách phát triển hợp tác xã ở Việt Nam
  • Thành phố Ninh Bình phát huy tiềm năng, lợi thế để phát triển
 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com

  • Giáo sư Trần Văn Thọ: Một tiếp cận khác về chiến lược phát triển 2011-2020
  • Tái cấu trúc nền kinh tế: Đơn đã kê, bệnh nhân có chịu uống thuốc?
  • Thế giới nhìn nhận, đánh giá về triển vọng môi trường kinh doanh của Việt Nam
  • Quan điểm chiến lược phát triển vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam đến 2020
  • Phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2015: Tập trung huy động vốn, chuyển đổi cơ cấu kinh tế
  • Quy hoạch chung Thủ đô: 90 tỷ USD cho hạ tầng có khả thi?
  • Phát triển kinh tế biển đảo Việt Nam: Thực trạng và triển vọng
  • Ts.Trần Công Hòa: Kinh tế Việt Nam 2010 - Một số khuyến nghị
  • Nóng hầm hập: Nhập siêu - Bội chi ngân sách - Chính sách tiền tệ
  • Bàn về cải cách cơ cấu và tái cấu trúc nền kinh tế
  • Việt Nam 2009: Các chỉ số kinh tế và bốn hạn chế từ góc nhìn thống kê
  • Kinh tế Việt Nam 2009 và một vài suy nghĩ về nhận thức luận chuyển đổi