Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

‘Nợ công của Việt Nam có thể giảm mạnh trong 10 năm tới’

Trưởng đại diện IMF tại Việt Nam Benedict Bingham dự báo nợ công của Việt Nam sẽ ổn định và giảm xuống mức xấp xỉ 40% GDP trong giai đoạn từ nay đến năm 2020.

Câu chuyện nợ công của Việt Nam được chuyên gia kinh tế của IMF đề cập dưới một góc nhìn khá toàn diện trong cuộc trao đổi tại Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội chiều 15/11.

Theo ông Benedict Bingham, muốn hiểu tận gốc vấn đề nợ công của Việt Nam, cần đặt nó trong bối cảnh của những biến số vĩ mô phức tạp khác như tốc độ tăng GDP, lạm phát, thâm hụt cán cân vãng lai...

Với mức tăng GDP trên 6% được duy trì trong nhiều năm qua (trừ 2009), đại diện IMF cho rằng Việt Nam có thể tiếp tục duy trì tăng trưởng ở mức 7-8% trong vòng 5 năm tới. Thu nhập bình quân đầu người, do đó, có thể tiệm cận con số 2.000 USD vào năm 2015.

Tuy nhiên, câu chuyện của Việt Nam lại nằm ở các yếu tố giúp ổn định nền kinh tế như lạm phát hay thâm hụt vãng lai. Theo số liệu của IMF, lạm phát của Việt Nam luôn cao hơn so với mức trung bình của nhóm ASEAN-4 (Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan) trong vòng ít nhất là 4 năm qua. Ở thời điểm tồi tệ nhất, mức chênh lệch có thể lên tới gần 20% (2008).

Vấn đề tương tự cũng xảy ra với cán cân vãng lai của Việt Nam khi mức thâm hụt của Việt Nam trong năm 2009 (-7,7% GDP) được đánh giá là sâu nhất so với những nền kinh tế có cùng quy mô, hoặc lớn hơn tại châu Á (trong đó có cả những đại diện như Bangladesh hay Sri-Lanka.

Chính những yếu tố bất ổn này, theo ông Bingham, là một phần nguyên nhân quan trọng đẩy nợ công của Việt Nam tăng vọt trong 3 năm 2008-2010 (từ khoảng 44% năm 2008 lên 52,6% trong năm 2010) khi khủng hoảng kinh tế xảy ra và Chính phủ phải mở rộng hầu bao cho các chương trình kích thích kinh tế.

"Như vậy, câu hỏi đặt ra cho Việt Nam hiện nay là làm sao duy trì được tốc độ tăng trưởng, giảm lạm phát, và từ đó giữ nợ công ở mức ổn định", chuyên gia của IMF nói.

Một phần lớn câu trả lời, theo ông Benedict Bingham, nằm trong các giải pháp được Chính phủ thi hành, trong đó có việc định hướng lại chính sách tiền tệ theo hướng lạm phát thấp. Bên cạnh đó, vị chuyên gia này cũng nhấn mạnh vai trò của chính sách tài khóa, nơi mà ông cho rằng, sự khéo léo cần được đặt lên hàng đầu.

Khó có thể cân đong đo đếm được một quốc gia cần bao nhiêu tiền một năm để phát triển ổn định nhưng việc cần làm là cân bằng giữa nhu cầu đầu tư và tính bền vững của ngân sách. "Vấn đề không nằm ở việc bạn vay nợ bao nhiêu mà nằm ở việc bạn sử dụng số tiền đi vay ấy vào mục đích gì và như thế nào", chuyên gia này khẳng định.

Ở thời điểm này, theo Benedict Bingham, tỷ lệ vốn vay được sử dụng vào các khoản đầu tư tốt (phát triển hạ tầng, viễn thông, giáo dục...) chưa thực sự cao. Trong khi đó, số tiền chảy vào các kênh đầu tư không phục vụ phát triển hoặc mang tính mạo hiểm cao (đầu tư tài chính, bất động sản...) lại chiếm tỷ lệ đáng kể. Chuyên gia này cho rằng đây chính là mục tiêu mà chính sách cần giải quyết trong giai đoạn từ nay đến năm 2020.

Trong giai đoạn này, đại diện của IMF cho rằng việc gia tăng tỷ trọng đóng góp của khu vực công khó có thể diễn ra trong khi việc vay nợ cũng như quản lý nợ cũng đã tiệm cận mức an toàn. Do đó, cách tốt nhất để ổn định nợ công là tăng tỷ lệ tiết kiệm trong nền kinh tế, sử dụng hiệu quả nguồn vốn vay cũng như khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân trong các lĩnh vực đầu tư phát triển (đặc biệt là cơ sở hạ tầng).

Nếu thực hiện được hiệu quả những chính sách này, đại diện IMF cho rằng Việt Nam hoàn toàn có thể giữ tỷ lệ nợ công ở mức ổn định trong giai đoạn từ nay đến năm 2015 trước khi chứng kiến con số này giảm mạnh trong những năm tiếp theo. Ở kịch bản tốt đẹp nhất, nợ công của Việt Nam có thể xuống sát 40% GDP vào năm 2020.

Tuy nhiên, ông Benedict Bingham cũng cho rằng những dự báo lạc quan này chỉ xảy ra nếu các điều kiện chung của kinh tế thế giới không có nhiều xáo trộn và Việt Nam đi đúng hướng trong việc kiểm soát nợ công.

(VnExpress)

  • Tín nhiệm thấp do “kinh tế khó khăn”
  • Nhà ngoại giao Tôn Nữ Thị Ninh và những kinh nghiệm đối ngoại
  • Nâng chỉ tiêu lạm phát để… cứu doanh nghiệp?
  • “Kết quả lấy phiếu tín nhiệm sẽ công khai”
  • Hai dự án bauxit-alumin: Nộp ngân sách 400 tỷ đồng/năm?
  • Cần cân nhắc trong chính sách điều tiết thị trường vàng
  • Bình ổn giá như việc nén lò xo
  • Sẽ chọn công nghệ tốt nhất để khai thác đất hiếm
  • Minh bạch thông tin để cải cách DNNN
  • Đột biến CPI tháng 9: “Bản thân tôi cũng bất ngờ!”
  • Hiệp định Thương mại Tự do xuyên Thái Bình Dương: Cơ hội không thể bỏ lỡ!
  • Nỗ lực kềm giá
  • Giá vàng vẫn còn đất...
 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com

  • Giáo sư Trần Văn Thọ: Một tiếp cận khác về chiến lược phát triển 2011-2020
  • Tái cấu trúc nền kinh tế: Đơn đã kê, bệnh nhân có chịu uống thuốc?
  • Thế giới nhìn nhận, đánh giá về triển vọng môi trường kinh doanh của Việt Nam
  • Quan điểm chiến lược phát triển vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam đến 2020
  • Phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2015: Tập trung huy động vốn, chuyển đổi cơ cấu kinh tế
  • Quy hoạch chung Thủ đô: 90 tỷ USD cho hạ tầng có khả thi?
  • Phát triển kinh tế biển đảo Việt Nam: Thực trạng và triển vọng
  • Ts.Trần Công Hòa: Kinh tế Việt Nam 2010 - Một số khuyến nghị
  • Nóng hầm hập: Nhập siêu - Bội chi ngân sách - Chính sách tiền tệ
  • Bàn về cải cách cơ cấu và tái cấu trúc nền kinh tế
  • Việt Nam 2009: Các chỉ số kinh tế và bốn hạn chế từ góc nhìn thống kê
  • Kinh tế Việt Nam 2009 và một vài suy nghĩ về nhận thức luận chuyển đổi