Xin cho biết nhận định của ông về diễn biến kinh tế thế giới và Việt Nam hiện nay?
Kinh tế châu Á đang có dấu hiệu phục hồi mạnh mẽ, trong khi nền kinh tế Mỹ vẫn có dấu hiệu chững lại. Điều này cho thấy, kinh tế khu vực châu Á đang dần tăng trưởng và tách khỏi sự ảnh hưởng của kinh tế Mỹ.
Hiện vẫn còn nhiều người lo ngại rằng, liệu sự phục hồi của các kinh tế khu vực châu Á có duy trì lâu, bởi nguyên nhân dẫn đến sự hồi phục của nền kinh tế châu Á là hàng hóa tồn kho đã cạn và doanh nghiệp mới bắt đầu sản xuất trở lại.
Thêm vào đó, các gói vốn hỗ trợ lãi suất, kích cầu đã có tác động tích cực, nhưng sang năm 2010, khi các gói vốn hỗ trợ lãi suất kích cầu cạn dần thì có khả năng kinh tế các nước khu vực châu Á sẽ chững lại. Song theo tôi, điều đó chưa chính xác, vì hiện nay hàng tồn kho của các tập đoàn lớn ở Mỹ cũng giảm, còn với tác động của gói kích cầu thì chỉ mới có Trung Quốc thể hiện rõ nét sự tác động tích cực.
Đối với Việt Nam, hiện kinh tế đã quay lại quỹ đạo tăng trưởng và đà tăng trưởng này đang diễn biến theo hình chữ V, vượt ngoài mong đợi trước đó.
Trải qua một giai đoạn khó khăn của năm 2008 và co hẹp trong quý I/2009, hiện nay,
kinh tế Việt Nam đã có sự hồi phục mạnh mẽ. Trong đó, nổi trội nhất là lĩnh vực xây dựng hiện đã nở rộ trở lại nhờ có sự hỗ trợ của gói vốn hỗ trợ lãi suất, kích cầu.
Tăng trưởng công nghiệp vẫn còn khiêm tốn. Doanh số bán lẻ cũng chưa thực sự ấn tượng, chỉ mới tăng 2%. Tuy nhiên, tôi cho rằng, sự phồi phục mạnh mẽ ở lĩnh vực xây dựng sẽ sớm lan tỏa sang các ngành nghề khác và dẫn đến bán lẻ tăng.
Ông đánh giá như thế nào về tình hình xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới?
Tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam cũng đang diễn biến theo hình chữ V. Nhiều người cho rằng, HSBC đã quá lạc quan khi đánh giá về tình hình xuất khẩu của Việt Nam nói riêng và khu vực châu Á nói chung, nhưng trên thực tế, nhu cầu tiêu dùng ở châu Âu và Mỹ đang tăng lên, nhất là trong giai đoạn từ nay đến cuối năm 2009.
Trong khi đó, hàng hóa ở khu vực này chủ yếu được nhập khẩu từ các nước châu Á, đặc biệt là hàng tiêu dùng. Hiện đơn hàng nhập khẩu vào thị trường Mỹ (vốn được xem là thị trường xuất khẩu tiềm năng) của các nước đã tăng gấp ba so với 6 tháng trước, từ mức 22 – 25% lên 65%. Đồng thời, chỉ số tiêu dùng của Mỹ đã tăng lên 1%.
Chính điều này sẽ hỗ trợ tích cực cho nguồn cung ở các nước châu Á, trong đó có Việt Nam, kéo theo tỷ lệ xuất khẩu tăng lên. Tuy nhiên, so với Mỹ, xuất khẩu vào thị trường châu Âu phục hồi chậm hơn.
Các gói kích cầu của Việt Nam, theo ông, đã phát huy tốt tác dụng và khi chủ trương hỗ trợ lãi suất chấm dứt, liệu các doanh nghiệp có gặp khó khăn?
Tôi cho rằng, gói kích cầu vừa qua bao gồm gói kích cầu tài chính và cắt giảm lãi suất cơ bản của Việt Nam đã phát huy tác dụng. Trong đó, ngành xây dựng từ mức tăng trưởng âm đã tăng trưởng 10% vào quý II năm nay. Nhiều người cũng đã rất hài lòng với việc Chính phủ Việt Nam miễn thuế trong nửa đầu năm nay để tạo công ăn việc làm.
Đồng thời, GDP đã cao lên trong quý II/2009. Như vậy, rõ ràng chính sách kích cầu đã phát huy tác dụng và vẫn còn nhiều lợi ích khác đang tạo nên kết quả vì chính sách cắt giảm lãi suất cần thời gian mới tỏ rõ được tác dụng của nó.
Theo tôi, khi gói kích cầu hỗ trợ lãi suất kết thúc không phải là điều tồi tệ, bởi gói kích cầu này đã đạt được mục đích khi tốc độ tăng trưởng tín dụng tăng mạnh, nên Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cần có chính sách để ngăn chặn những nguy cơ đáng tiếc có thể xảy ra. Tôi cho rằng, điều cần làm hiện nay là tăng cường xuất khẩu. Việt Nam là nền kinh tế phụ thuộc vào xuất khẩu, nên việc phục hồi xuất khẩu sẽ tốt cho nền kinh tế.
Vậy theo ông, vấn đề còn lo ngại nhất đối với kinh tế Việt Nam hiện nay là gì?
Có một điều đáng quan ngại mà theo dự báo của chúng tôi là lạm phát sẽ quay trở lại thị trường châu Á. Nguyên nhân là giá dầu thô thay đổi. Hiện giá dầu và giá thực phẩm chiếm 50% trong giỏ tính chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam. Do đó, nhiều khả năng lạm phát Việt Nam đến cuối năm nay sẽ được kiềm chế ở mức 10% và năm tới là khoảng 13%, nhưng khó có thể lặp lại tình trạng tăng cao của năm 2008.
Đồng thời, khác với năm 2008, ngân hàng trung ương của các nước trong khu vực châu Á sẽ không hoảng loạn khi lạm phát tái gia tăng và họ sẽ bình tĩnh để đưa ra hướng giải quyết đúng đắn.
Trên thực tế, một số ngân hàng đã hối tiếc về hành động tăng mạnh lãi suất trong năm trước, gây ảnh hưởng lên hoạt động cũng như kết quả. Vì vậy, nếu lạm phát tái bùng phát, chắc chắn các ngân hàng sẽ thận trọng hơn trước.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có biện pháp can thiệp mạnh mẽ (cắt giảm lãi suất cơ bản, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc…), giúp thị trường bình ổn. Các chính sách tiền tệ đã hỗ trợ tốt cho sự phát triển của kinh tế Việt Nam. Dự báo năm nay, kinh tế Việt Nam vẫn có thể đạt mức tăng trưởng 4,7% và GDP sẽ có sức bật mạnh mẽ hơn trong năm 2010 với khả năng GDP đạt khoảng 6,8%.
Thế nhưng, để đạt được mức tăng trưởng chấp nhận được trong năm 2009, chi tiêu Chính phủ sẽ tăng từ 5,8% trong năm ngoái lên 6,5% trong năm nay và ước tính khoảng 6% trong năm 2010. Do đó, Việt Nam cũng cần thận trọng đối với thâm hụt ngân sách và mức độ thâm hụt thương mại. Tuy thâm hụt thương mại của Việt Nam chưa thực sự đáng lo ngại, cộng với giải ngân vốn FDI không giảm nhiều như lo ngại trước đó, song không thể chủ quan.