Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Sẽ lùi thời điểm Việt Nam phải nhập khẩu than

Ông Vũ Huy Hoàng
Trao đổi với phóng viên tại hành lang Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khoá XII, Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng cho biết, theo tính toán của Bộ Công thương và các bộ, ngành liên quan, từ năm 2015 trở đi, Việt Nam mới phải nhập khẩu than.
 
Là một quốc gia xuất khẩu than, nhưng dự kiến trong vài năm tới, chúng ta lại phải nhập khẩu than. Điều này khiến các đại biểu Quốc hội cũng như dư luận xã hội không đồng tình với việc tiếp tục xuất khẩu than hiện nay, thưa Bộ trưởng?

Từ năm 2009 trở về trước, cũng như trong mấy năm tới, ngành than khai thác vượt nhu cầu tiêu thụ trong nước. Cụ thể, trong năm 2008 và 2009, mỗi năm chúng ta khai thác khoảng 40 triệu tấn than các loại, gấp đôi nhu cầu sử dụng trong nước. Hiện tại, mỗi năm, ngành điện chỉ tiêu thụ khoảng 6-7 triệu tấn; ngành xi măng, phân bón, giấy tiêu thụ khoảng 10 triệu tấn; các ngành còn lại, trong đó có ngành xây dựng, sử dụng than để sản xuất ra vật liệu xây dựng, tiêu thụ khoảng 3-4 triệu tấn. Vì vậy, số than còn lại cần phải xuất khẩu.

Vậy Bộ trưởng có bình luận gì về việc nước ta xuất khẩu than trong những năm qua?

Trong số than khai thác được, có nhiều chủng loại than có chất lượng rất tốt mà hiện trong nước chưa sử dụng đến hoặc nếu có sử dụng thì rất lãng phí và không hiệu quả, trong khi đó đem xuất khẩu lại rất được giá. Hơn nữa, cũng như các ngành khác, ngành than cần phải xuất khẩu, thu ngoại tệ về để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu phương tiện, máy móc, cũng như nguyên nhiên vật liệu cho sự phát triển của nền kinh tế và xa hơn nữa là thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước.

Nhưng liệu nước ta có thể tiếp tục xuất khẩu than như hiện nay?

Ai cũng biết, tài nguyên, khoáng sản không tái tạo, càng ngày càng cạn kiệt. Đối với nước ta, trong vài ba chục năm tới, nếu không phát hiện thêm các mỏ than mới, thì chắc chắn, việc đáp ứng nhu cầu trong nước cũng không đủ, chứ chưa nói đến xuất khẩu. Vì vậy, bài toán sử dụng than, khí đốt, dầu mỏ… như thế nào liên quan chặt chẽ tới an ninh năng lượng, đòi hỏi các cấp, các ngành cùng vào cuộc để tìm lời giải, chứ không riêng gì Bộ Công thương, Tập đoàn Dầu khí, Tập đoàn Công nghiệp than khoáng sản…

Ý thức rất rõ về việc bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, nên Chính phủ đã có chủ trương không kéo dài việc xuất khẩu than với tỷ trọng (so với khối lượng khai thác) lớn như hiện nay, vì nguồn than chúng ta ngày càng cạn kiệt; nhu cầu than trong nước ngày càng tăng, đặc biệt là than để đáp ứng cho ngành điện.

Vấn đề đặt ra trong thời gian tới là khai thác và sử dụng than thế nào, thưa Bộ trưởng?

Dù muốn hay không, chúng ta vẫn phải giảm dần việc xuất khẩu than. Tuy nhiên, giảm dần không đồng nghĩa với việc chấm dứt xuất khẩu, bởi như đã nói ở trên, chúng ta vẫn cần ngoại tệ để phục vụ ngành than nói riêng và nền kinh tế nói chung. Vấn đề đặt ra là vẫn phải xuất khẩu, nhưng phải có lộ trình giảm khối lượng xuất khẩu, giảm bao nhiêu, chỉ xuất khẩu những loại than gì… thì phải có những tính toán rất cụ thể, khoa học.

Vậy chúng ta đã xây dựng được lộ trình hợp lý chưa?

Bộ Công thương đã phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước… hoàn thiện Chiến lược Phát triển ngành than trình Chính phủ. Theo đó, kể từ năm 2015 trở đi, khi nhu cầu tiêu thụ than trong nước tăng rất mạnh do hàng loạt nhà máy nhiệt điện đi vào sản xuất, chúng ta không những không xuất khẩu, mà còn phải nhập than về để sử dụng.

Tuy nhiên, hiện chúng ta còn một số chủng loại than có chất lượng rất cao, nếu để sử dụng trong nước thì rất lãng phí, hiệu quả thấp, trong khi đem xuất khẩu thì giá rất cao. Vì vậy, trước mắt, vẫn cần xuất khẩu những loại than này để lấy ngoại tệ nhập khẩu những loại than rẻ hơn, phù hợp với nhu cầu sử dụng cho ngành điện, xi măng, giấy, hoá chất… Còn trong dài hạn, chúng ta vẫn phải giảm dần việc xuất khẩu các loại than có chất lượng tốt do loại tài nguyên này cũng không nhiều, trong khi nhu cầu sử dụng chúng ngày một tăng lên trong tương lai.

(Theo Mạnh Bôn // Báo đầu tư)

  • Tín nhiệm thấp do “kinh tế khó khăn”
  • Nhà ngoại giao Tôn Nữ Thị Ninh và những kinh nghiệm đối ngoại
  • Nâng chỉ tiêu lạm phát để… cứu doanh nghiệp?
  • “Kết quả lấy phiếu tín nhiệm sẽ công khai”
  • Hai dự án bauxit-alumin: Nộp ngân sách 400 tỷ đồng/năm?
  • "Xử nghiêm hành vi phao tin trên thị trường BĐS"
  • Hội nghị WEF Đông Á 2010: Nâng cao vị thế VN
  • Chưa thấy lợi từ việc vận chuyển hàng trực tiếp đi Mỹ
  • Doanh thu tại thị trường VN đạt mức tăng trưởng cao nhất trong khu vực
  • Doanh nghiệp ngày càng quan tâm đến vấn đề thuế
  • Sẽ có nhiều đoàn doanh nghiệp Đức đến Việt Nam
  • Đẩy mạnh XK vào Nga
  • Chỉ tiêu bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp, khu chế xuất: Hạ là hợp lý
 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com

  • Giáo sư Trần Văn Thọ: Một tiếp cận khác về chiến lược phát triển 2011-2020
  • Tái cấu trúc nền kinh tế: Đơn đã kê, bệnh nhân có chịu uống thuốc?
  • Thế giới nhìn nhận, đánh giá về triển vọng môi trường kinh doanh của Việt Nam
  • Quan điểm chiến lược phát triển vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam đến 2020
  • Phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2015: Tập trung huy động vốn, chuyển đổi cơ cấu kinh tế
  • Quy hoạch chung Thủ đô: 90 tỷ USD cho hạ tầng có khả thi?
  • Phát triển kinh tế biển đảo Việt Nam: Thực trạng và triển vọng
  • Ts.Trần Công Hòa: Kinh tế Việt Nam 2010 - Một số khuyến nghị
  • Nóng hầm hập: Nhập siêu - Bội chi ngân sách - Chính sách tiền tệ
  • Bàn về cải cách cơ cấu và tái cấu trúc nền kinh tế
  • Việt Nam 2009: Các chỉ số kinh tế và bốn hạn chế từ góc nhìn thống kê
  • Kinh tế Việt Nam 2009 và một vài suy nghĩ về nhận thức luận chuyển đổi