Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Tiến sĩ Lê Xuân Nghĩa, phó chủ tịch uỷ ban: Giám sát tài chính Quốc gia Điều chỉnh lãi suất bằng công cụ thị trường

Thị trường là cỗ máy điều chỉnh một cách chuẩn xác lãi suất dựa trên cung cầu vốn. Trả lời phỏng vấn báo Sài Gòn Tiếp Thị, ông Lê Xuân Nghĩa, phó chủ tịch uỷ ban Giám sát tài chính quốc gia đã nhấn mạnh như vậy.

Ông Nghĩa nói: “Thị trường có thể kỳ vọng lãi suất sẽ giảm và ổn định ở mức nào đó khi ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực hiện những chủ trương của Chính phủ về việc kéo giảm lãi suất”.

Doanh nghiệp đang làm thủ tục giải ngân tín dụng tại ngân hàng VIB. Ảnh: Lê Quang Nhật

Kể từ sau khi NHNN ban hành cơ chế cho vay trung và dài hạn theo lãi suất thoả thuận, lãi suất cho vay thực tế đã đẩy lên cao từ 14 – 18%/năm. Mức lãi suất này quá cao so với sức chịu đựng của doanh nghiệp cũng như mục tiêu tăng trưởng 6,5% của Chính phủ. Thị trường có thể kỳ vọng động thái nới lỏng thận trọng để giảm lãi suất thực tế không, thưa ông?

Chính phủ cũng thấy mức lãi suất hiện nay là cao, làm giảm nhu cầu đầu tư của khối doanh nghiệp. Với mức lãi suất này thì mục tiêu tăng trưởng 6,5% của năm nay sẽ rất khó thực hiện. Vì vậy, Chính phủ chủ trương kéo mặt bằng lãi suất xuống.

Để làm được điều này, NHNN phải thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng vừa phải. Nói cách khác là tăng cung ứng tiền thông qua thị trường mở, thị trường chiết khấu… giúp hệ thống ngân hàng tăng thanh khoản. Trên cơ sở đó, ngân hàng thương mại mới có điều kiện để giảm lãi suất cho vay và lãi suất huy động.

Đồng thời, khi lãi suất giảm xuống mức hợp lý sẽ thực hiện tự do hoá lãi suất, tức là gỡ bỏ trần lãi suất cho vay và huy động hiện nay, đưa mặt bằng lãi suất đúng theo nguyên tắc thị trường. Như vậy, thị trường có thể kỳ vọng lãi suất sẽ giảm và ổn định ở mức nào đó.

Tuy nhiên, có một vấn đề mang tính pháp lý cần phải gỡ khi thực hiện tự do hoá lãi suất, đó là trong luật Dân sự quy định lãi suất cho vay không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản. Đây là vấn đề và trở ngại lớn nhất về mặt chính sách tiền tệ hiện nay. Nhưng vừa qua, Quốc hội cũng đã có một nghị quyết gỡ vấn đề này là cho phép ngân hàng cho vay thoả thuận đối với những dự án có hiệu quả. Như vậy, những dự án có hiệu quả, được ngân hàng thẩm định thì ngân hàng có thể chuyển sang cơ chế thoả thuận lãi suất kể cả ngắn, trung và dài hạn.

Việc tự do hoá lãi suất liệu có dẫn tới một cuộc đua lãi suất mới?

Ngân hàng Nhà nước “bơm” vốn để giảm lãi suất

NHNN vừa xuất 8.200 tỉ đồng kỳ hạn 28 ngày với lãi suất 8%/năm và 2.500 tỉ đồng kỳ hạn 7 ngày với lãi suất 7,5%/năm nhằm tăng thêm vốn cho các NHTM. Bên cạnh đó, NHNN cũng đã tăng thêm phiên giao dịch thông qua nghiệp vụ thị trường mở lên 2 phiên/ngày. Đây được coi là một giải pháp nhằm giảm lãi suất cho phù hợp với sức chịu đựng của doanh nghiệp.

(theo Chinhphu.vn)

Tôi nghĩ là có. Về ngắn hạn, lãi suất sẽ đẩy lên do hiệu ứng từ chính sách. Nhưng tăng đến một mức nào đó, lãi suất sẽ giảm theo sự điều tiết của thị trường. Nguyên nhân là do chạy đua lãi suất bao giờ cũng có những giới hạn, họ không thể chạy đua mãi được. Một ngân hàng nhỏ mà đẩy lãi suất huy động cao lên thì câu hỏi là “liệu họ có thể cho vay với mức lãi suất cao mà họ đã huy động không, có đảm bảo hiệu quả không?”. Giống như một người ra chợ bán hàng, một mình không thể nâng giá bán cao hơn so mặt bằng chung của chợ, sự chênh lệch đó chỉ kéo dài trong khoảng thời gian nhất định rồi sẽ trở về trạng thái quân bình.

Việc trong cùng một hệ thống ngân hàng mà có mức lãi suất cho vay khác nhau đối với doanh nghiệp khác nhau cũng là chuyện bình thường.

Sau khi thực hiện tự do hoá lãi suất, NHNN sẽ lấy lãi suất nào làm định hướng cho hệ thống ngân hàng?

Thật ra, ngân hàng thương mại (NHTM) có nhiều kênh lãi suất để tham khảo. Họ có thể dựa vào lãi suất tái cấp vốn của NHNN. Ví dụ, NHNN tuyên bố lãi suất tái cấp vốn tuần này là bao nhiêu và các NHTM dựa trên lãi suất này để tham khảo. Qua kênh này, có thể biết được NHNN đang thực hiện chính sách tiền tệ nào, thắt chặt hay là mở rộng. Nếu thắt chặt thì NHTM cũng sẽ thắt chặt và ngược lại. NHTM cũng có thể tham khảo dựa trên lãi suất chiết khấu hoặc lãi suất nghiệp vụ thị trường mở (OMO) của NHNN.

Bên cạnh đó, NHNN cũng có thể ban hành mức lãi suất của ngân hàng tốt nhất cho vay doanh nghiệp tốt nhất tương tự như lãi suất Primerat của Mỹ (là mức lãi suất của ngân hàng lớn nhất, tốt nhất cho những doanh nghiệp tốt nhất vay. Các ngân hàng khác cứ dựa vào đó mà cộng thêm lãi suất tuỳ vào mức độ rủi ro mà họ đánh giá), để cho các ngân hàng, doanh nghiệp sau đó căn cứ vào đó mà cộng thêm vào tuỳ theo mức độ rủi ro.

Liệu có giải pháp nào để trong thời gian tới những lãi suất mang tính định hướng của NHNN khi công bố đều phản ánh được nhu cầu thực của thị trường, thưa ông?

NHNN có đầy đủ công cụ để điều hành thị trường. Tuy nhiên, lãi suất cơ bản hiện nay của Việt Nam còn nặng tính chất mệnh lệnh hành chính nên chưa phản ánh đầy đủ nhu cầu và dòng chảy vốn trên thị trường. Điều đó đôi khi làm cho các công cụ này trở nên méo mó.

(Theo Minh Huệ // SGTT Online)

Tiến sĩ Trần Du Lịch

Giảm lãi suất lệ thuộc khả năng kiềm chế lạm phát

Giảm lãi suất được hay không phụ thuộc vào khả năng Việt Nam có kiềm chế được lạm phát 2010 dự kiến ở mức 7% theo chỉ tiêu đặt ra. Trong những tháng tới, giá tiêu dùng có thể sẽ còn tiếp tục chịu tác động của hệ luỵ của chính sách nới lỏng tài chính áp dụng trong năm 2009; tác động dây chuyền của việc tăng giá điện, than, xăng dầu, sắt thép… Nhưng vẫn có nhiều khả năng kiềm chế lạm phát ở mức một con số, vì vậy, việc kéo lãi suất xuống có cơ hội để thực hiện.

  
Chuyên gia kinh tế Huỳnh Bửu Sơn

Ngân hàng Nhà nước phải có chọn lựa

Muốn giảm lãi suất phải tăng cung tiền tạo thanh khoản cho ngân hàng, mà tăng trưởng tín dụng cao sẽ làm tăng lạm phát. Nhưng nếu tốc độ này thấp sẽ khiến tăng trưởng GDP ảnh hưởng. Ngân hàng Nhà nước phải có chọn lựa.

Để làm mặt bằng lãi suất giảm dần, ngân hàng Nhà nước phải sẵn sàng cung ứng tiền, cho vay ở thị trường mở với mức 8% (bằng hoặc thấp hơn với lãi suất cơ bản), hỗ trợ ngân hàng ở các kỳ hạn dài hơi hơn, khối lượng lớn hơn so với trước đây. Thanh khoản tăng sẽ giúp ngân hàng giảm đi mức lãi suất cao ngoài thị trường

  
Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh

Lãi suất sẽ giảm nhanh

Lãi suất hiện nay tăng cao là có yếu tố méo mó của thị trường tiền tệ. Khi lãi suất trần còn giữ sẽ kìm hãm khả năng huy động vốn của ngân hàng, khan hiếm thanh khoản, tạo ra khan hiếm về mặt tín dụng. Mặt khác, lãi suất huy động cao thì doanh nghiệp thay vì đi vay làm ăn thì bỏ tiền vào ngân hàng hưởng lãi.

Tôi cho rằng, ngân hàng Nhà nước có hai cách ổn định lãi suất theo xu hướng giảm dần. Một là tăng cung tiền, nhưng sẽ tạo sức ép lạm phát, đánh đổi tăng trưởng. Hai là bỏ trần lãi suất, ngân hàng có thể điều chỉnh mức lãi suất huy động lên 12%/năm, và lãi suất cho vay ở 15%/năm là có thể có lợi nhuận. Tăng thanh khoản, lãi suất ngoài thị trường theo đó sẽ được điều chỉnh giảm.

Ngoài ra, trên thị trường liên ngân hàng lãi suất qua đêm không phải ở mức cao (hiện ở mức 7 – 8%), vì vậy, vấn đề sẽ xảy ra giữa thị trường và ngân hàng, ngân hàng và người vay.

Tuỳ thuộc chu kỳ sản xuất, khoản vay ngắn hạn sẽ đi vào lưu thông ngay, trung dài hạn mất nhiều thời gian hơn, nhưng tôi nghĩ lãi suất sẽ giảm nhanh, không đợi qua đến quý 3.

Hồng Sương

 

  • Tín nhiệm thấp do “kinh tế khó khăn”
  • Nhà ngoại giao Tôn Nữ Thị Ninh và những kinh nghiệm đối ngoại
  • Nâng chỉ tiêu lạm phát để… cứu doanh nghiệp?
  • “Kết quả lấy phiếu tín nhiệm sẽ công khai”
  • Hai dự án bauxit-alumin: Nộp ngân sách 400 tỷ đồng/năm?
  • Hà Nội tổ chức hội nghị tháo gỡ khó khăn cho DN : Nỗ lực cải thiện PCI
  • Thống đốc NHNN Việt Nam Nguyễn Văn Giàu: Ổn định lãi suất thị trường theo xu hướng giảm dần
  • Trái cây VN : Nâng tầm thương hiệu
  • TPHCM thích ứng với biến đổi khí hậu - Hạn chế xe cá nhân
  • “Hà Nội không lãng phí tiền cho Đại lễ 1.000 năm”
  • Thêm nguồn vốn mới cho DNNVV
  • Tìm hướng đi mới cho trái cây Việt Nam
  • Đường sắp... lên sàn
 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com

  • Giáo sư Trần Văn Thọ: Một tiếp cận khác về chiến lược phát triển 2011-2020
  • Tái cấu trúc nền kinh tế: Đơn đã kê, bệnh nhân có chịu uống thuốc?
  • Thế giới nhìn nhận, đánh giá về triển vọng môi trường kinh doanh của Việt Nam
  • Quan điểm chiến lược phát triển vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam đến 2020
  • Phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2015: Tập trung huy động vốn, chuyển đổi cơ cấu kinh tế
  • Quy hoạch chung Thủ đô: 90 tỷ USD cho hạ tầng có khả thi?
  • Phát triển kinh tế biển đảo Việt Nam: Thực trạng và triển vọng
  • Ts.Trần Công Hòa: Kinh tế Việt Nam 2010 - Một số khuyến nghị
  • Nóng hầm hập: Nhập siêu - Bội chi ngân sách - Chính sách tiền tệ
  • Bàn về cải cách cơ cấu và tái cấu trúc nền kinh tế
  • Việt Nam 2009: Các chỉ số kinh tế và bốn hạn chế từ góc nhìn thống kê
  • Kinh tế Việt Nam 2009 và một vài suy nghĩ về nhận thức luận chuyển đổi