Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

'Việt Nam không nên kỳ vọng quá nhiều vào đất hiếm'

Tiến Sỹ Bùi Đức Thắng, Tổng thư ký Hội Địa chất Việt Nam cho rằng, hiện nay nhu cầu đất hiếm còn ít, giá bán sản phẩm dạng thô quá rẻ, do đó không nên hy vọng sẽ giàu lên nhờ đất hiếm.

Ông Thắng trao đổi với phóng viên ít ngày sau khi Nhật Bản và Việt Nam ký hợp tác khai thác đất hiếm, một vật liệu được sử dụng trong các sản phẩm công nghệ cao như máy tính xách tay, điện thoại di động.

- Đề nghị ông cho biết tiềm năng đất hiếm của Việt Nam?


- Đất hiếm được phát hiện ở Việt Nam từ năm 1958. Đến nay đã phát hiện được nhiều điểm tụ khoáng đất hiếm ở Bắc Nậm Xe, Nam Nậm Xe, Đông Pao (Lai Châu), Mường Hum (Lào Cai) và Yên Phú (Yên Bái).

Ở Bắc Nậm Xe, quặng chủ yếu là bastnaesit, dạng mạch trong tầng đá vôi hóa có hàm lượng R203 là 1,4%-5,14%. Ở tụ khoáng Đông Pao, quặng chủ yếu là fluorit bastnaesit - parizit - barit và bastnaesit - parizit, với hàm lượng R203 trung bình 10,7%. Ngoài ra, dọc bờ biển miền Trung cũng có quặng monazit, xenotim kèm ilmenit trong sa khoáng.

Theo khảo sát thì Việt Nam có tài nguyên đất hiếm trên 17 triệu tấn và trữ lượng gần 1 triệu tấn, được xem là nước có tiềm năng lớn. Với trữ lượng này thì Việt Nam nằm trong top 10 thế giới về đất hiếm.

- Đất hiếm có phải là tài nguyên khoáng sản quý của Việt Nam?


- Việt Nam đã bắt đầu khai thác đất hiếm khá lâu rồi, cách đây hai, ba chục năm, nhưng sản lượng rất ít. Lúc đó, Tiệp Khắc và Ba Lan đã tham gia khai thác đất hiếm ở Việt Nam nhưng không nhiều.

Trong những năm qua, có 4 nước khai thác đất hiếm đáng kể như Trung Quốc là 20.000 tấn mỗi năm, chiếm 97% tổng sản lượng thế giới, Ấn Độ 2.700 tấn (2,1%), Brazil 650 tấn, Malaysia 350 tấn.

Theo tài liệu của Sở Địa chất Mỹ công bố liên tục trong nhiều năm gần đây, thế giới có tổng tài nguyên đất hiếm là 150 triệu tấn, trong đó trữ lượng 99 triệu tấn và sản lượng khai thác trung bình mỗi năm 120.000 tấn. Tính cả nhu cầu tăng hằng năm 5%, thế giới vẫn còn có thể khai thác đất hiếm đến gần 1.000 năm nữa. Vì thế, tuy gọi là "hiếm" nhưng đất hiếm không phải khoáng sản "nóng".

- Sau khi Trung Quốc tuyên bố ngừng xuất khẩu đất hiếm, Nhật Bản đã hướng tới Việt Nam như một nguồn cung cấp thay thế. Ông đánh giá việc này thế nào?

- Trung Quốc là nước có trữ lượng và khai thác đất hiếm lớn nhất thế giới. Từ năm 2005 đến nay, sản lượng khai thác đất hiếm mỗi năm của nước này là 120.000 tấn, chiếm 96,8% thế giới. Năm 2007, Trung Quốc xuất các loại sản phẩm đất hiếm đạt 1,5 tỷ USD.

Nhằm bảo đảm tiêu dùng trong nước và môi trường, Trung Quốc nhanh chóng hạn chế xuất khẩu đất hiếm ra nước ngoài và đến năm 2012 sẽ ngừng hẳn xuất khẩu, đồng thời đóng cửa các khu mỏ gây ô nhiễm nghiêm trọng. Thậm chí, họ còn thu mua các nguồn đất hiếm tại các nơi khác trên thế giới.

Nhật Bản không có đất hiếm, nên cần tới Việt Nam. Nhưng nhu cầu của họ cũng không lớn, mỗi năm chỉ chừng bày tới 10.000 tấn. Tính ra cũng vào khoảng hai xe tải chứ không nhiều.

- Vậy đất hiếm sẽ đóng góp như thế nào cho phát triển kinh tế Việt Nam?


- Việt Nam không nên kỳ vọng quá lớn sẽ giàu lên nhờ đất hiếm. Đơn giản vì nhu cầu quá ít, giá bán sản phẩm dạng thô quá rẻ so với công dụng của đất hiếm. Một năm Việt Nam có thể bán ra 10.000 tấn, với giá 8.000 USD một tấn thì cũng chưa thấm vào đâu.

Chỉ trừ trường hợp Việt Nam bán sản phẩm đã qua chế biến thì giá đất hiếm may ra còn cao. Chẳng hạn như năm 2008 giá quặng Bastnaesite thô là 8,82 USD một kg nhưng nếu chế biến thành Oxit Lutetium dạng tinh có giá 3.500 USD mỗi kg. Tuy nhiên, tình hình của nước ta hiện nay thì chưa thể thực hiện được.

Việt Nam đã nghiên cứu sử dụng đất hiếm trong các lĩnh vực nông nghiệp, chế tạo nam châm vĩnh cửu, biến tính thép, hợp kim gang, thủy tinh, bột màu, chất xúc tác trong xử lý khí thải ô tô... nhưng hiện vẫn dừng lại ở quy mô phòng thí nghiệm và bán công nghiệp.

Hàng năm, nước ta mới chỉ khai thác nhỏ, cỡ vài chục tấn quặng bastnaesit ở Đông Pao và vài ngàn tấn quặng monazit hàm lượng 35% -45% R203 ở sa khoáng ven biển miền Trung để bán theo đường tiểu ngạch.

(VnExpress)

  • Tín nhiệm thấp do “kinh tế khó khăn”
  • Nhà ngoại giao Tôn Nữ Thị Ninh và những kinh nghiệm đối ngoại
  • Nâng chỉ tiêu lạm phát để… cứu doanh nghiệp?
  • “Kết quả lấy phiếu tín nhiệm sẽ công khai”
  • Hai dự án bauxit-alumin: Nộp ngân sách 400 tỷ đồng/năm?
  • Triển lãm ITE-HCMC 2010: Cơ hội quảng bá du lịch
  • Giám đốc ADB tại Việt Nam nói gì về tỷ giá USD/VND?
  • Thị trường BĐS lên, xuống còn phụ thuộc nhiều yếu tố
  • Kim ngạch thương mại Việt Nam - Campuchia sẽ đạt 2 tỷ USD
  • Thông tư 22: Hành chính không“chỉnh” được thị trường
  • Chia sẻ kinh nghiệm phát triển du lịch homestay
  • “Mạnh tay” với lợi dụng chuyển giá để trốn thuế
  • Trách nhiệm về Vinashin: “Thành lập ủy ban điều tra là xác đáng”
 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com

  • Giáo sư Trần Văn Thọ: Một tiếp cận khác về chiến lược phát triển 2011-2020
  • Tái cấu trúc nền kinh tế: Đơn đã kê, bệnh nhân có chịu uống thuốc?
  • Thế giới nhìn nhận, đánh giá về triển vọng môi trường kinh doanh của Việt Nam
  • Quan điểm chiến lược phát triển vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam đến 2020
  • Phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2015: Tập trung huy động vốn, chuyển đổi cơ cấu kinh tế
  • Quy hoạch chung Thủ đô: 90 tỷ USD cho hạ tầng có khả thi?
  • Phát triển kinh tế biển đảo Việt Nam: Thực trạng và triển vọng
  • Ts.Trần Công Hòa: Kinh tế Việt Nam 2010 - Một số khuyến nghị
  • Nóng hầm hập: Nhập siêu - Bội chi ngân sách - Chính sách tiền tệ
  • Bàn về cải cách cơ cấu và tái cấu trúc nền kinh tế
  • Việt Nam 2009: Các chỉ số kinh tế và bốn hạn chế từ góc nhìn thống kê
  • Kinh tế Việt Nam 2009 và một vài suy nghĩ về nhận thức luận chuyển đổi