Nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Xuân Giá.
“Nhìn lại năm 2010, vui có, ấn tượng có, nhưng nỗi lo còn nhiều hơn, nhất là những bất ổn về kinh tế vĩ mô mà ta chưa khắc phục được”.
Nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Xuân Giá, người đã từng nhiều năm tham gia hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô, chia sẻ với VnEconomy, trước thời điểm năm cuối cùng của một chiến lược kinh tế sắp kết thúc.
Ông nói:
- 2010 là một năm khá đặc biệt! Nó không chỉ là năm cuối của kế hoạch 5 năm mà còn là năm cuối của chiến lược phát triển kinh tế, xã hội giai đoạn 10 năm 2001 - 2010. Đặc biệt, nó cũng là năm kết thúc một quá trình chao đảo kinh tế do nhiều nguyên nhân bên ngoài, và nhất là từ bên trong.
Kinh tế nước ta không bị suy thoái, chỉ bị suy giảm, bây giờ bắt đầu phục hồi. Riêng việc này, cũng rất đáng nói vì, các năm có con số cuối là 8, 9, 10 của 10 năm trước (năm 1997, 1998 và 1999 - PV) và bây giờ (năm 2008, 2009 và 2010 - PV) có quá nhiều điểm tương đồng, và cũng có không ít điều khác biệt.
Sự khác biệt
Trước hết, nhìn lại năm đặc biệt này, điều gì làm ông ấn tượng nhất?
Năm 2010, nếu nói một năm có những thành tựu lớn thì nó quá ngắn. Năm nay, giả sử GDP đạt được như Chính phủ đưa ra 6,7% thì đó là điều rất đáng mừng. Mức tăng này tương đương với năm 2000 là 6,8%.
Đáng ghi nhận là trong bối cảnh kinh tế vĩ mô có rất nhiều khó khăn, nhưng Chính phủ vẫn dành được nguồn lực lớn cho những mục tiêu về an sinh xã hội, nhất là xóa đói giảm nghèo đạt nhiều kết quả đáng khích lệ.
Ta cũng hoàn thành một số công trình quan trọng, tạo tiền đề cho phát triển của giai đoạn tiếp theo, điển hình như Thủy điện Sơn La, đưa các tổ máy đầu tiên vào hoạt động từ cuối năm 2010, đầu năm 2011, sớm hơn kế hoạch 2 năm, góp phần làm giảm bớt khó khăn về năng lượng trong tương lai.
Ngoài ra, chúng ta cũng chuẩn bị được nhiều văn kiện rất quan trọng định hướng cho giai đoạn phát triển 5-10 năm tới, trong đó chắc chắn có nhiều chính sách mới mang tính đột phá.
Tuy nhiên, thực sự, bên cạnh những điểm ấn tượng nổi bật trên thì vẫn còn khá nhiều điều lo lắng!
Ông lo ở những điều gì vậy?
Chất lượng tăng trưởng kinh tế thấp và tiếp tục giảm sút. Mức tăng trưởng kinh tế mấy năm qua chưa phải nhờ vào kết quả của việc giải quyết những mặt yếu cơ bản của nền kinh tế, mà chủ yếu dựa vào các giải pháp tình thế. Các giải pháp thuộc nhóm này có góp phần phục hồi kinh tế nhưng cũng để lại không ít hậu quả xấu cho năm 2011 và một số năm sau.
Kinh tế vĩ mô của ta còn nhiều vấn đề. Năm nay hầu như tất cả các phiên họp thường kỳ hàng tháng, Chính phủ luôn nhắc đến vấn đề này, nhưng kết quả đạt được chưa như mong muốn, trên cả hai bình diện so với mục tiêu đề ra và, chuẩn bị điều kiện tiền đề cho sự phát triển bền vững năm sau và những năm kế tiếp.
Năm 2000, chỉ số CPI là -0,6%, còn năm 2010, giả sử là 10% thì cũng đã cao hơn năm 2000 gần 11 lần. Đây là điều rất đáng bàn và rất đáng quan tâm.
Cũng so với tình hình cách đây 10 năm, về tăng trưởng kinh tế na ná giống nhau, thậm chí điểm giảm sâu của lúc bấy giờ còn sâu hơn bây giờ. Năm 1999, GDP còn có 4,8% nhưng năm 2009, thấp nhất vẫn là 5,3%. Điểm phục hồi năm 2000 là 6,8%, và bây giờ dự kiến là 6,7%, gần như bằng nhau.
Nhưng khác biệt hết sức quan trọng là, thời điểm bước vào năm 2011 khác nhau nhiều lắm với 2001. Ngày ấy, bước vào năm 2001, các mặt của kinh tế vĩ mô ổn định hơn nhiều so với bây giờ.
Đó có phải là điều dễ hiểu, thưa ông, khi mà chúng ta đã gia nhập WTO, đã chịu tác động rộng của khủng hoảng tài chính toàn cầu và có sự ràng buộc với bên ngoài hơn...?
Ảnh hưởng xấu từ khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay, cũng như khủng hoảng kinh tế châu Á cách đây hơn 10 năm, đến nền kinh tế nước ta là không thể phủ nhận, và cũng không thể phủ nhận một tình hình là ảnh hưởng từ bên ngoài lúc đó không gay gắt bằng bây giờ.
Tuy nhiên, theo quan điểm của cá nhân tôi, nguyên nhân bên trong là chủ yếu, là cơ bản, nguyên nhân từ bên ngoài chỉ làm bộc lộ sớm hơn, làm trầm trọng thêm những khó khăn bên trong mà thôi.
Lấy ví dụ như 2007, chưa có tác động gì từ bên ngoài nhưng lạm phát cũng đã rất cao rồi, đâu đợi đến cuối năm 2008, khi cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra. Đây là minh chứng rằng nguyên nhân bên trong là chính.
Sợ lạm phát hơn giảm phát
Thực tế, trong nỗi lo bất ổn vĩ mô mà ông nói, bây giờ, người dân, nhất là những người có mức thu nhập trung bình, thấp lo lắng đến vấn đề lạm phát nhiều hơn - khi mà giá cả cứ không ngừng leo thang?
Đúng vậy.
Trong kinh tế vĩ mô có hai trong nhiều vấn đề người ta hết sức lo ngại, đó là giảm phát và lạm phát. Ai cũng biết, hệ lụy của giảm phát và lạm phát, với mức độ khác nhau đều có ảnh hưởng xấu đến sản xuất kinh doanh, tức là ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, nhưng người ta dễ chấp nhận giảm phát hơn lạm phát, bởi lẽ giảm phát dẫn đến kiếm tiền khó hơn, tức người ta có thể mất cái có thể có, nhưng những gì đang có thì được bảo toàn.
Còn lạm phát làm cho người ta có cảm giác kiếm tiền dễ hơn, nhưng từng ngày từng giờ người ta bị mất đi cái đang có. Dân kêu ca nhiều nhiều về lạm phát là vì lý do này.
Nguyên nhân cơ bản của lạm phát đầu tiên là do hiệu quả của sản xuất kinh doanh, hiệu quả đầu tư thấp, do cơ cấu kinh tế kém hiệu quả...
Nhưng, xét đến cùng lạm phát chẳng qua là tiền nhiều hơn hàng. Nói một cách dễ hiểu, mặc dù không chính xác về mặt khoa học kinh tế thì đơn giản là lấy tổng lượng tiền chia cho tổng lượng hàng thì ra giá cả. Vì vậy, phát hành tiền nhiều hơn sự cần thiết, cho dù phát hành vì mục tiêu nào đi nữa và với mọi điều kiện khác không đổi thì cũng dẫn đến lạm phát. Do đó, phải kiên quyết "khóa van” của lạm phát lại, tức phải kiểm thật chặt chẽ việc bơm tiền vào lưu thông.
Từng là người tham gia chống lạm phát phi mã thành công, theo ông, giải pháp chống lạm phát phi mã ngày ấy bây giờ áp dụng còn có giá trị không?
Thời đó, khi chống lạm phát phi mã, câu cửa miệng mà mọi người đều nói là: ngân sách thu lấy mà chi, ngân hàng vay lấy mà cho vay. Và đó cũng là phương châm hành động số 1.
Tôi nghĩ đó là một bài học vô cùng quan trọng mà bây giờ vẫn còn nguyên giá trị.
Cần tăng trưởng đúng nghĩa
Có thể hiểu vấn đề cấp bách bây giờ là giải quyết bài toán về ổn định kinh tế vĩ mô, theo ông, ta phải bắt đầu từ đâu?
Cân đối kinh tế vĩ mô có nhiều mặt, ở đây chỉ xin nêu một vấn đề đang “nóng”, đó là vấn đề chống lạm phát. Lạm phát được đo bằng chỉ số giá hàng tiêu dùng và dịch vụ, mà giá cả luôn là phạm trù kinh tế rất phức tạp. Sự biến động của nó do rất nhều nguyên nhân. Theo tôi, để khắc phục cần phải nghiêm túc thực hiện các giải pháp sau.
Thứ nhất, cho dù, chưa mang lại hiệu quả tức thì, nhưng phải bắt đầu ngay từ bây giờ việc cấu trúc lại nền kinh tế theo hướng nâng cao năng suất và hiệu quả.
Thứ hai, trong ngắn hạn, phải kiên quyết giảm bội chi ngân sách, mà điều đầu tiên là phải giảm đầu tư công xuống. Ở đây, đầu tư công bao gồm cả đầu tư của doanh nghiệp nhà nước.
Chúng ta đã từng có bài học hồi chống lạm phát phi mã khi tuyên bố ngân sách thu lấy mà chi, vì ngân sách thu không đủ trả lương thì làm gì đủ tiền để cấp vốn cho các doanh nghiệp nhà nước, nên đã thực hiện chính sách doanh nghiệp nhà nước phải đi vay theo lãi suất thị trường mà hoạt động.
Để khỏi phá sản hàng loạt doanh nghiệp nhà nước, lúc bấy giờ đã phải áp dụng chính sách “bù lãi suất”, để hỗ trợ ban đầu cho doanh nghiệp tồn tại và bắt đầu quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. Nhờ chính sách này trong thời gian ngắn đã sắp xếp lại từ hơn 13.000 doanh nghiệp còn 6.500 doanh nghiệp.
Cho nên, giảm đầu tư công không phải là câu chuyện nợ công không được vượt qua ngưỡng này ngưỡng nọ mà nó phải lập tức bắt đầu cắt giảm ngay tư bây giờ. Một trong những bài học chống lạm phát thành công lúc đó như đã nhắc lại trên đây thực chất là giảm đầu tư công. Nếu cứ tăng đầu tư công, tăng đầu tư từ ngân sách dẫn đến bội chi thì khó mà kiểm soát được lạm phát.
Thứ ba, cũng trong ngắn hạn, kinh nghiệm của lịch sử của thời kỳ chống lạm phát phi mã cho hay phải kiểm soát thật chẽ việc phát hành tiền tệ, đừng để tiền thừa trong lưu thông. Vì như trên đã nói nếu phát hành tiền nhiều hơn sự cần thiết cho dù qua kênh nào, nhằm mục đích gì cũng đều có thể gây ra lạm phát. Nên phải có cân đối giữa phát hành tiền tệ với tăng trưởng.
Về mục tiêu tăng trường GDP từ 7 - 7,5% cho năm 2011 đã được Quốc hội thông qua, theo ông, mục tiêu đó có khả thi?
Tôi nói thẳng, tôi ít quan tâm đến 7 hay 7,5% mặc dù tăng trưởng là yêu cầu số của 1 của nước ta. Nhưng tăng trưởng như thế nào để cho ổn định mới là cốt lõi.
Thà liên tục đạt mức tăng trưởng chỉ 7% trong 10 năm, còn hơn là 8%, 9% hay 10% rồi lại xuống 4-5%, để cuối cùng cả 10 năm không được 7%.
Quan điểm của tôi là phải đặt chất lượng tăng trưởng lên hàng đầu, bởi lẽ chất lượng tăng trưởng là nhân tố làm tăng trưởng kinh tế về số lượng, chứ không phải số lượng làm tăng chất lượng. Tôi quan tâm tăng trưởng kinh tế có chất lượng với hai ý nghĩa: tăng trưởng kinh tế có chất lượng làm cho tốc độ tăng trưởng của những năm tiếp theo cao hơn. Và tăng trưởng có chất lượng đảm bảo kinh tế vĩ mô ổn định, người dân tăng được thu nhập, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được tăng lên.
Chạy theo tăng trưởng bằng bất cứ giá nào thì sự tăng trưởng đó sẽ không làm đất nước phát triển, thậm chí càng tăng trưởng, đất nước càng nghèo đi.
Theo kết quả lấy phiếu tín nhiệm các chức danh, cán bộ chủ chốt do Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội công bố chiều 4/7, ông Nguyễn Đình Đức, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội là người có số phiếu “tín nhiệm cao” ít nhất trong số 18 cán bộ lãnh đạo Hà Nội, với 27 phiếu. Ông Đức cũng là người có số phiếu “tín nhiệm thấp” nhiều nhất với 23 phiếu.
Trong một cuộc trò chuyện với các cán bộ, nhân viên nữ công tác tại Bộ Ngoại giao, bà Tôn Nữ Thị Ninh đã chia sẻ những bài học kinh nghiệm của bản thân trong phát huy thế mạnh của nhà ngoại giao nữ.
Tại hội thảo chuyên đề về chính sách tiền tệ và lạm phát mục tiêu cuối tuần qua, ông Nguyễn Đức Hưởng, Phó chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank), đưa ra một quan điểm trái chiều.
Tại cuộc họp báo của Văn phòng Quốc hội về kỳ họp thứ 5, các câu hỏi chuyển tới Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc chủ yếu tập trung vào nội dung lấy phiếu tín nhiệm mà Quốc hội dự kiến sẽ dành khoảng 3 ngày thực hiện công việc này.
Ngày 16/5, tại buổi họp báo về 2 dự án Tổ hợp bauxit-alumin (nhôm) Lâm Đồng và dự án alumin Nhân Cơ (Đăk Nông), TS Nguyễn Tiến Chỉnh - Trưởng Ban Khoa học công nghệ và Chiến lược phát triển (thuộc Vinacomin) khẳng định, 2 dự án có hiệu quả về kinh tế. Theo tính toán sẽ nộp ngân sách 400 tỷ đồng/năm.
Các DN VN liệu có thể xây dựng những chiến lược cạnh tranh theo những mô hình đặc thù với hoàn cảnh kinh tế, chính trị - xã hội của VN ? Đứng từ góc nhìn một chuyên gia kinh tế VN, TS Trần Đình Thiên – Viện trưởng Viện Kinh tế VN đã đưa ra quan điểm của mình.
Bộ Tài chính (BTC) vừa ban hành Thông tư 184/2010/TT - BTC về việc điều chỉnh thuế xuất khẩu mặt hàng vàng chưa gia công hoặc ở dạng bán thành phẩm từ mức 0% lên 10%.
Chúng ta phải làm nên những dự án 500 ha, 1.000 ha, thậm chí là phải làm những thành phố mới. Muốn như vậy không thể không có sự liên kết giữa các DN với nhau và liên kết giữa DN với nhà nước.
11 tháng đầu năm 2010, giải ngân vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của VN đã đạt mức kỷ lục so với nhiều năm trở lại đây, tới 2,346 tỷ USD, tăng 17% so với cùng kỳ năm 2009. Phóng viên đã phỏng vấn chuyên gia kinh tế cao cấp Lê Đăng Doanh về vấn đề này.
Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) năm 2010 chứng kiến sự chuyển hướng đáng chú ý với việc vốn đăng ký giảm nhưng lượng giải ngân lại tăng. Cơ cấu FDI cũng có sự thay đổi.
“Với mức lãi suất hiện nay 17 – 18%, thậm chí 20 – 21%, dù là về lý thuyết lãi suất rất hợp lý, nhưng thực tế thì quá cao, DN không chịu nổi. Nguồn vốn cao sẽ kéo theo chi phí, giá thành, tồn kho tăng lên, sức mua, sức cạnh tranh, lợi nhuận thấp đi.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.