Các ngân hàng thương mại thuộc hàng “đại gia” tại buổi làm việc với Thống đốc Nguyễn Văn Giàu mới đây đều thống nhất ổn định mặt bằng lãi suất để lo đầu ra cho xã hội. Tuy nhiên, chỉ sự đồng thuận mang tính kêu gọi đó chưa đủ để khiến DN tin vào việc một cuộc đua giảm lãi suất trong thời gian tới. Vậy giải pháp cụ thể gì để lãi suất có thể hạ nhiệt ? Chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành chia sẻ cùng DĐDN xung quanh vấn đề này.
Ông Thành cho rằng, nền kinh tế VN mới bắt đầu có những tín hiệu lạc quan, thì đã phải đối mặt với việc nâng lãi suất ngân hàng từ mức 10,5% (hay 6,5% sau khi được bù 4% lãi suất) lên đến 18-19%, tức là gấp 250% đến 300%, và nhiều khả năng tăng cao hơn nữa với lãi suất thoả thuận. Đồng thời thanh khoản của hệ thống ngân hàng co rút lại, với việc khó khăn huy động vốn trong nhân dân. Tình trạng này đang đẩy DN VN vào thế “tiến thoái lưỡng nan”.
- Đối với nhiều quốc gia trên thế giới, khi nền kinh tế tăng trưởng quá cao, họ thường dùng giải pháp nâng lãi suất để góp phần giảm nguy cơ lạm phát. Một số chuyên gia kinh tế VN cho rằng trong bối cảnh hiện nay, VN cũng nên áp dụng phương pháp này, bởi thà đối mặt với lạm phát còn hơn là thiểu phát, thưa ông ?
Hãy nhìn nhận rằng, nếu lý thuyết này có cơ sở đối với các nền kinh tế phát triển, chưa hẳn đã hoàn toàn đúng đối với một nền kinh tế đang phát triển như VN.
- Vì sao, thưa ông ?
Ví dụ như ở Hoa Kỳ, hơn 50% tổng lượng cho vay của hệ thống ngận hàng là hướng về tín dụng cá nhân và tiêu thụ. Từ việc mua nhà, ôtô, tủ lạnh, trang trí nội thất, thậm chí quần áo, du lịch,... đều vay tín dụng của ngân hàng. Vì vậy khi lãi suất lên cao là có tác dụng ngay đến việc kiềm chế tiêu dùng. Nhưng ở VN lượng tín dụng cá nhân và tiêu dùng còn rất hạn chế, lãi suất ngân hàng không có ảnh hưởng nhiều đến việc kiềm chế mức tiêu thụ mà phần lớn đánh vào DN, đẩy chi phí đầu vào làm tăng giá sản xuất là chính. Kết quả lãi suất cao không làm giảm nhiệt lạm phát mà còn làm tăng áp lực lạm phát.
Một hệ quả khác là lãi suất cao làm suy yếu VND, giá nguyên liệu nhập khẩu và giá thành sản xuất tăng. Đó là đặc điểm của một nền kinh tế gia công.
Cái nguy hiểm khác trong những tình huống như hiện nay của VN là mỗi khi nghe chỉ số CPI tăng là kéo còi báo động “lạm phát” và lập tức bấm nút tăng lãi suất như một liều thuốc giải cứu bắt buộc. Chúng ta thường lẫn lộn việc tăng chỉ số CPI với lạm phát. Chúng ta có tập quán dùng hai từ ngữ này như đồng nghĩa với nhau, trong khi chỉ số CPI và lạm phát là hai việc khác nhau.
- Ông có thể nói rõ hơn về vấn đề này ?
Lạm phát là lưu lượng tiền tệ quá thừa trong nền kinh tế, cấu thành áp lực làm tăng giá hàng hoá và dịch vụ. Nhưng chỉ số CPI của VN tăng trong tình trạng nền kinh tế đang khan hiếm tín dụng và hệ thống ngân hàng không đủ cung ứng tín dụng cho DN với lãi suất hợp lý.
Nền kinh tế thật sự đang ở trong tình trạng “thiểu phát” chứ không phải “lạm phát” mặc dù chỉ số CPI đang trong chiều hướng leo thang. Nếu vì chỉ số CPI tăng mà lập tức tăng lãi suất cơ bản, lãi suất tín dụng ngân hàng, thì chẳng khác nào mới đo nhiệt độ của người bệnh mà đã kết luận chẩn đoán và kê đơn cho uống thuốc kháng sinh.
- Nhưng giải bài toán làm sao có lãi suất thấp (đầu ra) đáp ứng nhu cầu vốn của thị trường trong khi đầu vào đang rất khó khăn do rào cản trần lãi suất huy động không đủ hấp dẫn người gửi tiền, thưa ông ?
Trước tình trạng nguồn tín dụng toàn cầu co rút lại, làm tê liệt hoạt động kinh tế, các chính phủ đã đồng loạt hạ thấp lãi suất chiết khấu và lãi suất cấp vốn cho hệ thống NHTM. Các ngân hàng trung ương (NHTƯ) đồng loạt áp dụng chính sách tháo khoán cho hệ thống NHTM vay vốn để đáp ứng nhu cầu tín dụng của DN. Bên Châu Âu lãi suất cấp vốn cho NHTM rút xuống đến mức 1%, Mỹ là từ 0% đến 0,25% và Nhật là 0,10%.
Theo chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành, trong tình hình hiện nay nếu lãi suất hợp lý cho DN phát triển sản xuất kinh doanh là 7% hoặc 8% thì NHTƯ có thể cho NHTM vay vốn với lãi suất từ 3% đến 4%. |
Giải pháp cho hệ thống NHTM VN có đủ thanh khoản để cho DN vay, mà không phải huy động trong nhân dân là nguồn vốn vay từ NHTƯ. Với phương thức này, Nhà nước không tạo ra lạm phát vì chỉ cung cấp đủ vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh. Mỗi ngày NHTƯ có trách nhiệm theo dõi lưu lượng tiền tệ trong nền kinh tế. Nếu có triệu chứng thừa và khả năng gây ra lạm phát thì áp dụng ngay các biện pháp thu hồi vốn vay từ hệ thống NHTM, và nếu có triệu chứng thiếu vốn gây ra thiểu phát thì áp dụng ngay các biện pháp cấp vốn để hệ thống NHTM cho DN vay phát triển sản xuất kinh doanh, cho nền kinh tế đạt được mục tiêu tăng trưởng..
Và cũng cần nói rõ là NHTƯ cho hệ thồng NHTM vay vốn, chứ không phải “cho không” hay “bù lãi suất”, nên không ảnh hưởng đến ngân sách nhà nước.
Tất nhiên, ngoài số vốn vay từ NHTƯ để đáp ứng cho nhu cầu cung ứng vốn cho DN với lãi suất hợp lý, hệ thống NHTM có thể dùng vốn huy dộng từ trong nhân dân để thực hiện những hoạt động cho vay tiêu dùng, hay những lĩnh vực khác, với lãi suất thoả thuận mà không ảnh hưởng đến chi phí đầu vào của hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Nhưng nếu NHNN không hành xử như vậy, DN sẽ phải ứng xử thế nào trong tình hình hiện nay, thưa ông ?
Nói DN không nên vay hay hạn chế vay NH trong nền kinh doanh là điều không tưởng. Nhưng trong tình hình hiện nay, các DN cần phải tránh biến động về tỷ giá cũng như chính sách có thể dự báo được. DN nên định kỳ tiến hành việc định giá lại tài sản và nguồn vốn theo tỷ giá thị trường. Song song đó, sử dụng công cụ phái sinh để phòng ngừa và hạn chế rủi ro tỷ giá, như thực hiện hợp đồng mua, bán kỳ hạn; thực hiện hợp đồng mua quyền chọn bán, quyền chọn mua... Trong đó, hoán đổi lãi suất là một trong những công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá hiệu quả nhất. Việc hoán đổi nghĩa vụ trả lãi theo lãi suất thả nổi sang lãi suất cố định giúp DN xác định chi phí vay vốn và phòng ngừa rủi ro nếu diễn biến lãi suất bất lợi, đồng thời giúp DN giảm chi phí vay vốn khi lãi suất cho vay của các NH tăng. Ngoài ra, NH còn đưa ra một số sản phẩm liên quan như hoán đổi tiền tệ chéo (phòng ngừa rủi ro tỷ giá lẫn lãi suất); hoán đổi lãi suất một đồng tiền (chỉ phòng ngừa rủi ro lãi suất)... Thực tế, bản chất của những dịch vụ phái sinh này là DN trích cho NH một khoản phí (phí rủi ro hối đoái), khi DN bị rủi ro về tỷ giá, NH sẽ chịu thay cho DN. Tuy nhiên, điều này cũng chỉ có thể áp dụng khi DN có tiềm lực tài chính.
Còn nói chung, trong tình hình hiện nay DN chỉ nên “đánh nhỏ, thắng nhỏ, đánh chắc thắng chắc”. Chẳng hạn như xây nhà 20 tầng thì không xây hết rồi mới kinh doanh, mà xây tầng nào khai thác luôn tầng đó. Tất nhiên, nói như vậy chỉ là hình tượng, còn thực tế, DN cũng phải tùy cơ ứng biến, chọn một vài thị trường tiềm năng nhất để đầu tư thay bằng bình thường anh có thể đầu tư ở nhiều thị trường.
- Xin cảm ơn ông !
Ông Lê Văn Thành - TGĐ Cty Thể thao Động Lực: DN phải chịu lãi suất quá cao Thực tế lãi suất của DN phải đi vay hiện nay đến 17 – 18%. So với điều kiện bình thường đã là cao, chưa nói đến việc so với DN năm ngoái được hỗ trợ lãi suất 4% về lãi suất cộng thêm các điều kiện về ưu đãi thuế... Không phải nhìn đâu xa, so ngay với lãi suất bình quân mà các DN ở Trung Quốc hiện nay vay ngân hàng ở mức 6 - 8% thì rõ ràng lãi suất của chúng ta thiếu sự cạnh tranh. Đặc biệt, lãi suất thoả thuận càng trở thành “cớ” để các NHTM đua nhau nâng lãi suất thoải mái hơn. Với mặt bằng lãi suất như vậy DN trong nước chẳng khác nào bị cắt cổ, càng tạo cơ hội cho các đối thủ nước ngoài tận dụng lợi thế về vốn đẩy mạnh việc chiếm lĩnh thị trường. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến sức cạnh tranh của DN VN nói chung, DN ngành may mặc, da giày nói riêng, trong khi ngành này giải quyết việc làm thường xuyên cho một lực lượng lớn lao động. Ông Nguyễn Văn Tấn - Giám đốc Cty Thương mại và Chế biến thực phẩm Thông Tấn: Thoả thuận vẫn phải trong “khung” Kể từ NHTM được áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận cho các khoản vay trung và dài hạn từ tháng 2/2010 đến giờ, cái được duy nhất của các DN là rất thuận lợi khi đến bàn bạc với các NH, được thì được, không được thì DN vui vẻ ra về và NHTM cũng vui vẻ đóng cửa. Thực tế, DN chỉ có thể chịu mức lãi suất 10%, cố gắng lắm mới có thể chịu đựng được 12%. Những DN phải chấp nhận vay mức cao hơn là do giải pháp tình thế, phải chấp nhận lỗ để giữ uy tín với đối tác và các đơn hàng đã ký, hoặc là vay… để rồi phá sản, chứ DN làm ăn mình bạch không bao giờ chịu được mức lãi suất trên trời như vậy. Theo tôi, NHNN cần hạn chế lãi suất thấp nhất 8%, với lãi suất tiền gửi 6,5 – 7% vẫn thu hút tiền gửi tiết kiệm và cao nhất 12% để DN có thể sống được. Như vậy, cơ chế lãi suất thoả thuận cần phải thoả thuận trong khung cho phép của NHNN. Có như vậy mới có thể thúc đẩy sản xuất kinh doanh, nếu không thì tăng trưởng sẽ chỉ là giả tạo. |
(Theo Phương Thảo // Diễn đàn doanh nghiệp)
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com