“Khi đó, trong đầu tôi cũng đã nghĩ cả đến việc xem xét xin từ chức, vì đã là người đứng đầu thì bất cứ vấn đề gì xảy ra trong ngành mình là mình cũng phải sẵn sàng chịu trách nhiệm và sẵn sàng chịu trách nhiệm đến cùng”, Bộ trưởng Hồ Nghĩa Dũng hồi tưởng về thời điểm sau khi xảy ra thảm họa sập cầu dẫn cầu Cần Thơ, ngày 26/9/2007.
Trung tuần tháng 7/2006, tân Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Hồ Nghĩa Dũng bắt đầu tiếp quản chiếc ghế “nóng”, với một bên tai là lời dặn dò của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng: “Phải lấy lại uy tín của ngành giao thông sau vụ PMU18”, một bên tai là dự báo khó khăn của người tiền nhiệm: “Nếu vẫn cơ chế như thế này thì ai làm Bộ trưởng cũng sẽ mắc khuyết điểm như tôi mà thôi”
Ông Hồ Nghĩa Dũng cũng có dự cảm được rằng tất cả những cán bộ trong ngành giao thông đều đang chờ đợi ông với những dấu hỏi lớn. “Khi đó, tôi đã tự nhủ với lòng mình, mình sẽ phải cố gắng trả lời lần lượt những dấu hỏi lớn đó và hứa sẽ cố gắng để xứng đáng với truyền thống vẻ vang của ngành”.
Tân Bộ trưởng là người có tỷ lệ phiếu thuận thấp nhất (57,81%) trong số các thành viên Chính phủ mới được phê chuẩn năm 2006. 4 tháng sau khi nhận cương vị mới này, tháng 11/2006, lần đầu tiên trả lời chất vấn trong phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Bộ trưởng Hồ Nghĩa Dũng đã đăng đàn trước một loạt câu hỏi về trách nhiệm, về mục tiêu cơ bản đặt ra cho bản thân sau khi nhậm chức, về giải pháp gì để cá nhân mình và Bộ Giao thông Vận tải không mắc khuyết điểm như thời gian qua...
Rất thành thật, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải khi đó đã ngập ngừng trả lời: “Tôi chính thức nhậm chức đến nay mới gần 4 tháng. Nếu như ngay bây giờ hỏi tôi đã đặt ra những mục tiêu lớn, tham vọng lớn thế nào thì tôi hoàn toàn chưa định hình được. Mục tiêu của tôi là để cho Bộ ổn định trở lại, hoạt động đồng bộ trở lại, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao mà Quốc hội và Chính phủ đề ra”.
Gần một năm sau đó, trong phiên họp Quốc hội diễn ra vào tháng 8/2007 tiến hành việc xem xét nhân sự mới cho bộ máy của Chính phủ, không “ảm đạm” như lần đầu tiên được bổ nhiệm, Bộ trưởng Hồ Nghĩa Dũng tái đắc cử với số phiếu thuận lên đến 84,18%.
Gần 4 năm qua, năm nào cũng như năm nào, Bộ trưởng Hồ Nghĩa Dũng đều đặn đăng đàn trả lời chất vấn, nhưng các phiên chất vấn ông đã ngày một ít “nóng” hơn. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng cũng vẫn thường nhắc đến Bộ trưởng Hồ Nghĩa Dũng là một trong những bộ trưởng luôn thực hiện lời hứa một cách rốt ráo nhất.
Bộ trưởng từng “tiết lộ” rằng thấy rất bất ngờ khi được bổ nhiệm vào chức vụ Bộ trưởng. Từng làm Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tổng công ty Thép và sau đó giữ cương vị Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch tỉnh Quảng Ngãi, khi đến với ngành giao thông, Bộ trưởng đã có những tâm tư gì?
Lúc Chính phủ có ý định phân công tôi vào cương vị Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, tôi đã từ chối. Nhưng sau đó thì được động viên và tôi chấp hành sự phân công của tổ chức. Rồi sau đó “ngồi lên lưng hổ” thì phải quyết tâm thôi.
Thời gian đầu khi nhận chức vụ đó, gần như tôi chỉ một mong muốn là tuy một số cán bộ sai phạm trong vụ tiêu cực ở PMU 18 đã làm giảm nghiêm trọng uy tín của ngành giao thông, nhưng mong rằng Chính phủ cũng như công luận xã hội sau khi nghiêm túc phê phán những sai phạm ấy sẽ có sự nhìn nhận công bằng thỏa đáng cho những công lao của ngành đối với công cuộc xây dựng đất nước.
Về cá nhân tôi khi đó còn có những khó khăn riêng do được đào tạo về công nghiệp và hơn 30 năm qua làm việc trong khối công nghiệp và doanh nghiệp, dù đã một nhiệm kỳ tích lũy được những kinh nghiệm lãnh đạo quản lý ở địa phương. Do đó, tôi tự đặt cho mình nhiệm vụ phải học hỏi nhiều thêm.
Đúng là chưa khi nào tôi thấy phải chịu sức ép như khi làm bộ trưởng. Tôi cảm thấy trách nhiệm rất nặng nề, phấn khởi ít mà lo thì nhiều. Dư luận xã hội không phải lúc nào cũng hiểu và đồng cảm được với ngành giao thông.
Xây dựng xong một con đường đẹp, làm xong một cây cầu đẹp, hàng ngày dòng người tấp nập đi qua, có mấy người lưu tâm đến công sức của ngành giao thông. Nhưng chỉ cần một vết nứt, vết lún là chấn động dư luận ngay.
Khi sẵn sàng chấp nhận quản lý một lĩnh vực rất phức tạp như giao thông, tôi cũng luôn lường trước và cũng luôn sẵn sàng đương đầu với những vấp váp có thể xảy ra. Nhưng tôi đã tự quyết tâm với lòng mình rằng không để mình vấp váp đến những sự việc liên quan đến phẩm chất đạo đức cá nhân.
Nhưng thực tế cho thấy Bộ trưởng đã không “vấp váp” gì. Dù vậy, dư luận từng chứng kiến ông nhiều lần đứng lên xin lỗi dư luận, nhận trách nhiệm và có lúc còn tuyên bố sẵn sàng từ chức. Chẳng hạn như sau thảm hoạ sập cầu dẫn cầu Cần Thơ, ngày 26/9/2007. Hồi tưởng lại tâm trạng khi đó, điều mà Bộ trưởng nhớ nhất là gì?
Sáng đó tôi đang chủ trì cuộc họp tại văn phòng Bộ rồi nhận được tin nhắn báo cầu Cần Thơ có sự cố, sập đà giáo chết và bị thương khoảng 100 người.
Lúc đó tôi chỉ muốn gục xuống bàn! Sau đó, tôi ra sân bay và cả đêm 26/9, thức trắng ở chân cầu Cần Thơ.
Khi chỉ đạo giải quyết cho sự cố này sao cho khẩn trương mà không bị rối, tôi vừa nghĩ mình sẽ phải trả lời thế nào trước dư luận. Đây là sự cố công trình và tai nạn lao động nghiêm trọng nhất của ngành, dù bất luận vì nguyên nhân nào, điều mà tôi muốn chia sẻ nhất trước dư luận là xin gửi lời xin lỗi đến toàn thể nhân dân, những người bị nạn và gia đình người bị nạn.
Khi đó, trong đầu tôi cũng đã nghĩ cả đến việc xem xét xin từ chức, vì đã là người đứng đầu thì bất cứ vấn đề gì xảy ra trong ngành mình là mình cũng phải sẵn sàng chịu trách nhiệm, và sẵn sàng chịu trách nhiệm đến cùng. Năm 2007 quả thật là một năm buồn nhiều vui ít với ngành giao thông nhưng dường như để bù đắp lại, năm 2008 và 2009, trong sự phát triển, ngành đã có những bứt phá khá ngoạn mục. Những kết quả đó có làm Bộ trưởng hài lòng?
Kết thúc năm 2008 ngành giao thông đạt được giải ngân cao nhất từ trước tới nay. Trái phiếu Chính phủ đạt 10 nghìn 200 tỷ đồng, gấp khoảng 2,5 lần so với năm 2006, vượt mục tiêu giải ngân mà Chính phủ giao (8 nghìn tỷ).
Năm 2009, Bộ Giao thông Vận tải cũng là Bộ đạt được kết quả giải ngân cao nhất, ước thực hiện khối lượng cả năm đạt 13 nghìn tỷ đồng. Chúng tôi phấn đấu năm 2009 là năm đạt kỷ lục trong giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản, đặc biệt là vốn trái phiếu chính phủ. Chuẩn bị các điều kiện để hoàn thành kế hoạch giải ngân trong những năm tiếp theo qua việc tiếp tục chuẩn bị khởi công những dự án quan trọng có đủ điều kiện để khởi công.
Nhưng liên quan đến toàn bộ lĩnh vực quản lý nhà nước về giao thông vận tải thì còn nhiều trăn trở lắm. Chẳng hạn như đối với hạ tầng quốc lộ, làm thế nào để lập lại trật tự hành lang an toàn giao thông đường bộ, đường sắt.
Rồi những vấn đề liên quan đến đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, đối với các dự án kết cấu hạ tầng đang triển khai, phải tập trung quyết liệt để chỉ đạo và hoàn thành dứt điểm trong năm 2009 – 2010; giảm thiểu ùn tắc giao thông tại thành phố Hà Nội và Tp.HCM...
Và đã khi nào Bộ trưởng cảm thấy rất nhức nhối, thậm chí rơi vào tâm trạng “lực bất tòng tâm” đối với các vấn đề giao thông chưa?
Nhức nhối thì nhiều nhưng phải rơi vào tâm trạng như lực bất tòng tâm thì chưa.
Chẳng hạn, như khi có đại biểu chất vấn tôi về con đường 32, hay như có đại biểu chất vấn vấn đề vành đai 3 ở Hà Nội, rằng đây là dự án vành đai 3 do Bộ Giao thông Vận tải làm chủ đầu tư thực hiện không đúng quy hoạch đã phê duyệt của Thủ tướng từ năm 2001 và nhân dân đã khiếu nại rất nhiều, có cả tố cáo rằng dự án này có tham nhũng...
Đối với dự án đường 32 chậm vì rất khó khăn trong giải phóng mặt bằng. Bức xúc nhiều lần, trong một phiên họp Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải chủ trì đã có ý kiến là cứ giao lại hết cho Hà Nội, kể cả chủ đầu tư của phần xây dựng và chủ đầu tư của phần giải phóng mặt bằng, nhưng Hà Nội lại không... nhận nên Bộ Giao thông Vận tải lại phải làm chủ dự án.
Còn như đối với dự án đường vành đai 3 thì trong quá trình làm hầu như tuần nào, hầu như tháng nào chúng tôi cũng phải tiếp xúc với dân, để nghe ý kiến đối thoại. Khi dân tố cáo có tham nhũng, chúng tôi đã tổ chức thanh tra và cũng đề nghị Thanh tra Chính phủ cùng làm rõ để cho thật khách quan.
Nếu Bộ sai, Bộ hoàn toàn chịu trách nhiệm. Nhưng cuối cùng thì những thông tin tố cáo đó đều là không chính xác.
Có đại biểu Quốc hội, sau khi theo dõi một phiên chất vấn Bộ trưởng về dự án đường 32 đã đặt cho Bộ trưởng biệt danh “Bộ trưởng của những con đường đau khổ”, bởi họ ấn tượng với sự trăn trở của ông với những con đường. Khi nghe “biệt danh” này thì Bộ trưởng cảm thấy thế nào?
Theo kết quả lấy phiếu tín nhiệm các chức danh, cán bộ chủ chốt do Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội công bố chiều 4/7, ông Nguyễn Đình Đức, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội là người có số phiếu “tín nhiệm cao” ít nhất trong số 18 cán bộ lãnh đạo Hà Nội, với 27 phiếu. Ông Đức cũng là người có số phiếu “tín nhiệm thấp” nhiều nhất với 23 phiếu.
Trong một cuộc trò chuyện với các cán bộ, nhân viên nữ công tác tại Bộ Ngoại giao, bà Tôn Nữ Thị Ninh đã chia sẻ những bài học kinh nghiệm của bản thân trong phát huy thế mạnh của nhà ngoại giao nữ.
Tại hội thảo chuyên đề về chính sách tiền tệ và lạm phát mục tiêu cuối tuần qua, ông Nguyễn Đức Hưởng, Phó chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank), đưa ra một quan điểm trái chiều.
Tại cuộc họp báo của Văn phòng Quốc hội về kỳ họp thứ 5, các câu hỏi chuyển tới Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc chủ yếu tập trung vào nội dung lấy phiếu tín nhiệm mà Quốc hội dự kiến sẽ dành khoảng 3 ngày thực hiện công việc này.
Ngày 16/5, tại buổi họp báo về 2 dự án Tổ hợp bauxit-alumin (nhôm) Lâm Đồng và dự án alumin Nhân Cơ (Đăk Nông), TS Nguyễn Tiến Chỉnh - Trưởng Ban Khoa học công nghệ và Chiến lược phát triển (thuộc Vinacomin) khẳng định, 2 dự án có hiệu quả về kinh tế. Theo tính toán sẽ nộp ngân sách 400 tỷ đồng/năm.
Quan điểm của tôi là nước Việt Nam công nghiệp hóa chứ không phải tỉnh nào cũng công nghiệp hóa. Có lẽ chúng ta cần thay đổi ngay từ tư duy triết lý về công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam trong thời đại mới, làm rõ mô hình mong muốn đạt tới nó là cái gì và bằng con đường nào, bằng cách nào.
Trong năm qua, tỉnh Hậu Giang đặc biệt là TX.Vị Thanh đã có nhiều thay đổi đáng kể về cơ sở hạ tầng, tạo nên vóc dáng mới cho diện mạo của một đô thị hiện đại. Tuy nhiên, việc quản lý xây dựng sau quy hoạch đang là vấn đề đáng quan tâm. Trao đổi với phóng viên Báo Hậu Giang, ông Nguyễn Thiện Nhơn, Giám đốc Sở Xây dựng Hậu Giang, cho biết:
Đối với Việt Nam, đang theo đuổi chính sách điều hành tỷ giá linh hoạt theo cung cầu thị trường, có quản lý, có kiểm soát của nhà nước. Nhiều người khuyên tôi nên phá giá thêm, nhưng Ngân hàng Nhà nước phải cân đối với nhiều vấn đề: nợ quốc gia, nợ doanh nghiệp và tác động lạm phát.
Việc kiểm tra hải quan đối với hàng hóa chuyển phát nhanh tại TPHCM dự kiến sẽ có sửa đổi theo hướng giải phóng hàng hóa nhanh chóng hơn. Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online đã trao đổi thêm với ông Lê Kiên Trung, Cục trưởng Cục Hải quan TPHCM, về kế hoạch này.
Việt Nam đã, đang và sẽ còn tham gia vào nhiều cuộc đàm phán, nhiều cam kết quốc tế. Tuy nhiên, sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp vào quá trình này còn cần phải được cải thiện rất nhiều. Để tìm câu trả lời cho vấn đề này, phóng viên đã trao đổi với ông Trần Hữu Huỳnh – Phó Tổng thư ký, Trưởng Ban Pháp chế VCCI.
Giá điện của Việt Nam vẫn thấp hơn nhiều nước, nên việc tăng giá để thu hút đầu tư và ngang bằng khu vực là khó tránh khỏi. Đó là khẳng định của Thứ trưởng Bộ Công Thương Bùi Xuân Khu, khi nói về phương án tăng giá điện vừa được bộ này trình Chính phủ.
“Tôi khẳng định sẽ không có giá sàn theo nghĩa cuối cùng, nhưng nếu xét trên quan điểm nào đó, giá thành mà doanh nghiệp đang cung cấp dịch vụ cũng có thể hiểu chính là giá sàn mà doanh nghiệp không được bán phá giá”, ông Phạm Hồng Hải, Vụ trưởng Vụ Viễn thông, Bộ Thông tin và Truyền thông, nói với VnEconomy hôm qua (26/1).
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.