Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Tiếp cận nguồn vốn ODA: Bước chuyển về tư duy

tinkinhte.comÔng Hồ Quang Minh – Vụ trưởng Vụ Kinh tế Đối ngoại (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đã có cuộc trao đổi về chủ trương tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn ODA của khu vực kinh tế tư nhân.
 
- Ông đánh giá thế nào về những chuyển biến của nền kinh tế một khi cánh cửa được mở rộng hơn cho khu vực tư nhân dễ dàng tiếp cận và sử dụng nguồn vốn ODA?

Chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó khu vực tư nhân được đối xử bình đẳng, kể cả tiếp cận tới các nguồn vốn. Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp,... đã thể hiện rõ tinh thần này. ODA (viện trợ không hoàn lại và vốn vay ưu đãi) là nguồn vốn của các chính phủ nước ngoài, các định chế tài chính quốc tế (WB, ADB, IMF…), các tổ chức quốc tế (UNDP, UNICEF…), các tổ chức liên chính phủ (EC, OPEC…) dành cho Nhà nước và Chính phủ Việt Nam để hỗ trợ thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ưu tiên, nhất là các chương trình dự án công (xóa đói giảm nghèo, giao thông, thủy lợi, điện, giáo dục, đào tạo, y tế, tăng cường năng lực thể chế và con người).

Phải thừa nhận rằng, trong thời gian qua nguồn vốn ODA đã có tác động tích cực giúp chúng ta phát triển mạnh cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội khi nguồn vốn của ngân sách còn hạn hẹp và thực lực của khu vực kinh tế tư nhân chưa đủ mạnh, đồng thời các chương trình, dự án hạ tầng kinh tế vốn chậm thu hồi vốn chưa phải là đối tượng ưu tiên đầu tư của khu vực này.

Bước vào giai đoạn phát triển mới hướng tới mục tiêu đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, nhu cầu nguồn vốn đầu tư, nhất là cho khu vực công rất lớn và Chính phủ nhận thức cần phải huy động mạnh mẽ nguồn lực của toàn xã hội thông qua chủ trương, chính sách và các giải pháp xã hội hóa nguồn vốn đầu tư này. Các nhà tài trợ đồng tình và ủng hộ chủ trương này của ta và trên thực tế đã có một số chương trình, dự án ODA có sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân trong thời gian qua như xây dựng nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ -2 (WB), hạn mức tín dụng để phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (Đan Mạch), tín dụng hai bước để phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ kể cả danh nghiệp tư nhân (Nhật Bản)…

Hiện nay, tiềm lực của khu vực tư nhân đã khá mạnh và các doanh nghiệp tư nhân đã bắt đầu quan tâm đến đầu tư vào các chương trình, dự án công. Do vậy, mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân (PPP) trong đó sử dụng một phần vốn từ nguồn vốn ODA là bước đi ban đầu giúp hiện thực hóa trên thực thực tế chủ trương xã hội hóa của ta trong đầu tư phát triển.

- Ông có lường trước những khó khăn khi thực hiện việc cho doanh nghiệp tư nhân vay vốn ODA, cả về phía cơ quan đầu mối quản lý lẫn phía doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn?

Một công trình giao thông được nhận nguồn vốn ODA
 
Một khi việc khu vực tư nhân được tiếp cận tới nguồn vốn ODA trở nên bình thường, chứ không còn là các trường hợp cá biệt, thì chắc chắn sẽ xuất hiện những khó khăn, phức tạp ít nhất trên các mặt sau đây: (i) Thể chế, (ii) Cơ chế quản lý, (iii) Thủ tục hành chính  và (iv) Năng lực con người, kể cả đối với các cơ quan quản lý nhà nước về ODA lẫn doanh nghiệp tư nhân sử dụng nguồn vồn này. Những khó khăn, phức tạp nảy sinh trong 4 bốn lĩnh vực này đều có thể giải quyết được nếu chính sách sử dụng ODA của chúng ta trong thời kỳ tới dựa trên nguyên tắc “người hưởng lợi ODA phải có trách nhiệm trả nợ và chia sẻ rủi ro với Chính phủ”.

- Mặc dù đã có nhiều tiến bộ, song tỷ lệ giải ngân vốn ODA của Việt Nam nhìn chung vẫn thấp hơn mức trung bình của khu vực. Điều này có ảnh hưởng gì đến việc cho vay - giải ngân vốn ODA cho khu vực tư nhân? Cần khắc phục thực trạng này như thế nào, thưa ông?

Một trong những tiêu chí mà nhiều nhà tài trợ sử dụng để quyết định hạn mức cung cấp vốn ODA cho nước tiếp nhận là năng lực hấp thụ quốc gia nguồn vốn này. Đúng là việc tỷ lệ giải ngân ODA của Việt Nam còn thấp hơn so với mức trung bình khu vực cũng ảnh hưởng đến thu hút ODA của Việt Nam. Tôi tin rằng nguồn vốn ODA vào nước ta đã có thể lớn hơn nếu như mức giải ngân vốn ODA của ta đạt bằng và hơn mức trung bình của các nước trong khu vực.

Như vậy, các thành phần kinh tế, trong đó có khu vực tư nhân có nhu cầu và được vay vốn ODA cũng sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp nếu tỷ lệ giải ngân vốn ODA của chúng ta tiếp tục không có được bước đột phá cần thiết. Để cải thiện việc giải ngân vốn ODA chúng ta phải làm nhiều việc: khởi động dự án phải nhanh hơn; đấu thầu phải  suôn sẻ hơn; không kéo dài thời gian giải phóng mặt bằng; thủ tục hành chính ở các cấp phải được tinh giản hóa tối đa và minh bạch; năng lực quản lý dự án  phải được tăng cường và một điều không kém phần quan trọng là các nhà tài trợ cũng phải sát cánh cùng chúng ta trong việc thực hiện các giải pháp đó.

- Có ý kiến lo ngại rằng doanh nghiệp tư nhân cần có các nhà bảo lãnh lớn đứng đằng sau mới có thể với tới nguồn vốn này và có thể đây là kẽ hở tiêu cực. Ông có bình luận gì?

Thực ra hiện nay chúng ta chưa có chính sách cụ thể, cơ chế và các quy trình thủ tục để hiện thực hóa kết luận ngày 9/2/2010 của Ban Bí thư về việc khu vực tư nhân có thể tiếp cận nguồn vốn ODA, do vậy không thể bình luận về sự lo ngại thể hiện trong câu hỏi của bạn. Tuy nhiên, tôi muốn đề cập đến một số ý sau:

Thứ nhất, đối với vốn ODA, người bảo lãnh duy nhất là Nhà nước và Chính phủ Việt Nam bằng uy tín chính trị của mình cũng như hệ số tín nhiệm tài chính  được các nhà tài trợ thừa nhận. ODA tiếp tục chảy vào Việt Nam chứng tỏ uy tín chính trị cao và hệ số tín nhiệm tài chính khả quan của nước ta.

Thứ hai, một khi việc khu vực tư nhân tiếp cận nguồn vốn ODA trở nên bình thường thì điều chắc chắn chúng ta phải có là chính sách, cơ chế, hệ thống thủ tục hành chính, kể cả chế độ giám sát cộng đồng đủ mạnh, minh bạch và có trách nhiệm giải trình cao để bảo đảm sự tiếp cận bình đẳng và sử dụng có hiệu quả cao vốn ODA của tất cả các thành phần kinh tế, công cũng như tư. Làm được như vậy sẽ không có đất cho tiêu cực phát sinh và người hưởng lợi cuối cùng chính là người dân đóng thuế của chúng ta để trang trải cho các món nợ ODA ngày hôm nay.

- Trong bối cảnh một số nền kinh tế - kể cả nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ - cũng đang phải vất vả xoay sở để trả những khoản nợ nước ngoài khổng lồ, đồng thời nguồn vốn ODA dành cho Việt Nam ngày càng ít ưu đãi hơn (khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình), việc mở rộng cửa hơn cho ODA chảy vào Việt Nam có tạo nên những quan ngại về khả năng trả nợ?

Các nước phát triển cao như Mỹ, Nhật Bản, Pháp... cũng như các nước nghèo như Việt Nam ta phải đi vay nợ nước ngoài để xây dựng và phát triển đất nước cũng là lẽ thường tình. Là quốc gia đang phát triển có mức thu nhập trung bình thấp như Việt Nam hiện nay thì viện trợ ODA không hoàn lại và vốn vay ưu đãi cao sẽ ít đi cũng là một thực tế theo tập quán quốc tế. Điều quan trọng ở đây là vốn vay ODA, nhất là loại có các điều kiện tài chính kém ưu đãi, phải được sử dụng có hiệu quả, trả được nợ và bảo đảm an toàn nợ quốc gia.

Chúng ta phải có chính sách và cơ chế thích hợp để bảo đảm hiệu quả sử dụng, trả được nợ vốn vay và bảo đảm an ninh nợ quốc gia.

Theo các kết quả đánh giá của các tổ chức kinh tế, tài chính có uy tín trên thế giới như WB, IMF dựa trên các tiêu chí như tỷ trọng nợ quốc gia của Việt Nam so với GDP và tổng kim ngạch xuất khẩu... thì ta vẫn ở trong ranh giới an toàn. Ông Tsuno Motonori, Trưởng đại diện Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản tại Việt Nam (JICA) cho biết, Nhật Bản không lo lắng về khả năng trả nợ của Việt Nam. IMF và WB cũng không quan ngại về điều này. Hơn nữa, quy mô nền kinh tế của Việt Nam ngày càng lớn với tăng trưởng hàng năm ở mức cao. Do đó, trả nợ không phải là vấn đề lớn của Việt Nam. Đây là một nhận định tích cực và là một tin tốt lành.

Để đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời gian tới, chúng ta vẫn chủ trương mở cửa cho nguồn vốn ODA. Song, chúng ta phải có chính sách và cơ chế thích hợp để bảo đảm hiệu quả sử dụng, trả được nợ vốn vay và bảo đảm an ninh nợ quốc gia. Đây không chỉ là yêu cầu của ngày hôm nay mà là đòi hỏi của các thế hệ mai sau - những người có trách nhiệm trả các khoản nợ này.

- Xin cảm ơn ông!
 
Thêm 25,8 tỷ Yên vốn ODA từ Nhật Bản

* Tại trụ sở của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Hà Nội), Bộ trưởng Võ Hồng Phúc (thay mặt Chính phủ Việt Nam) và Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Nhật Bản tại Việt Nam, Ngài Sakaba Mitsuo (thay mặt Chính phủ Nhật Bản) vừa ký kết công hàm trao đổi về việc Chính phủ Nhật Bản cung cấp cho Chính phủ Việt Nam 25,822 tỷ yên ODA vốn vay thuộc đợt 2 tài khóa 2009 của Nhật Bản (kết thúc vào ngày 31-3-2010). Khoản vay nêu trên đưa tổng cam kết ODA vốn vay mà Nhật Bản dành cho Việt Nam trong tài khóa 2009 lên đến 145,613 tỷ yên, cao nhất từ trước đến nay.

* Công hàm quy định các điều kiện khung cho việc cung cấp và sử dụng 25,822 tỷ yên tín dụng ưu đãi của Chính phủ Nhật dành cho Việt Nam. Trên cơ sở các điều kiện khung này, trong tháng 3-2010, tại Hà Nội, đại diện Bộ Tài chính Việt Nam và đại diện Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản sẽ ký kết 5 hiệp định tín dụng cụ thể dành cho 5 dự án, bao gồm: dự án xây dựng nhà ga hành khách - cảng hàng không quốc tế Nội Bài; dự án đường nối từ cầu Nhật Tân đi sân bay quốc tế Nội Bài; dự án xây dựng cầu Cần Thơ; dự án khôi phục cầu quốc lộ I giai đoạn 3 (đoạn Cần Thơ - Cà Mau) và dự án phát triển cơ sở hạ tầng khu công nghệ cao Hòa Lạc. 

* Kể từ khi nối lại viện trợ cho Việt Nam vào năm 1992 đến nay, Nhật Bản luôn là nhà tài trợ song phương lớn nhất cho Việt Nam. Tính cả khoản tín dụng ưu đãi vừa được ký kết, tổng cam kết ODA (bao gồm cả viện trợ không hoàn lại và tín dụng ưu đãi) của Nhật dành cho Việt Nam từ 1992 đến nay lên tới 1.557 tỷ yên.

(Theo Anh Thư // Báo Doanh nhân)

  • Tín nhiệm thấp do “kinh tế khó khăn”
  • Nhà ngoại giao Tôn Nữ Thị Ninh và những kinh nghiệm đối ngoại
  • Nâng chỉ tiêu lạm phát để… cứu doanh nghiệp?
  • “Kết quả lấy phiếu tín nhiệm sẽ công khai”
  • Hai dự án bauxit-alumin: Nộp ngân sách 400 tỷ đồng/năm?
  • Chuyên gia năng lượng nguyên tử Việt Nam sẽ sang Nga đào tạo từ 9/2010
  • “Hà Nội không thiếu đất làm thương mại”
  • Phải giám sát độc lập việc phân cấp đầu tư
  • Chuyên gia kinh tế cao cấp Lê Đăng Doanh: Petrolimex cần rõ ràng hơn
  • CPI tăng nhanh: Đáng lo nhưng không đáng “ngại”!
  • Cùng Doanh nhân vượt thử thách
  • Cho vay với lãi suất thỏa thuận: “Góc khuất”
  • Hầm dìm Thủ Thiêm: Có đảm bảo tuổi thọ?
 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com

  • Giáo sư Trần Văn Thọ: Một tiếp cận khác về chiến lược phát triển 2011-2020
  • Tái cấu trúc nền kinh tế: Đơn đã kê, bệnh nhân có chịu uống thuốc?
  • Thế giới nhìn nhận, đánh giá về triển vọng môi trường kinh doanh của Việt Nam
  • Quan điểm chiến lược phát triển vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam đến 2020
  • Phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2015: Tập trung huy động vốn, chuyển đổi cơ cấu kinh tế
  • Quy hoạch chung Thủ đô: 90 tỷ USD cho hạ tầng có khả thi?
  • Phát triển kinh tế biển đảo Việt Nam: Thực trạng và triển vọng
  • Ts.Trần Công Hòa: Kinh tế Việt Nam 2010 - Một số khuyến nghị
  • Nóng hầm hập: Nhập siêu - Bội chi ngân sách - Chính sách tiền tệ
  • Bàn về cải cách cơ cấu và tái cấu trúc nền kinh tế
  • Việt Nam 2009: Các chỉ số kinh tế và bốn hạn chế từ góc nhìn thống kê
  • Kinh tế Việt Nam 2009 và một vài suy nghĩ về nhận thức luận chuyển đổi