Nhiều người cả đời tích góp được số tiền lớn “tậu” miếng đất nhỏ mong có chỗ an cư hoặc để dành làm của; nhưng vì không tìm hiểu kỹ đã vội vàng đặt cọc, chồng tiền để rồi gặp phải không ít phiền toái rắc rối, nhiều khi mất cả chì lẫn chài!
Mua bán “dây dưa”!
Quê ở Hải Dương, anh H. lặn lội vào Bình Dương lập nghiệp, sau thời gian dài làm việc chăm chỉ đã tích góp cho mình một số tiền kha khá. Nghĩ rằng “an cư mới lạc nghiệp” nên anh quyết định tìm mua miếng đất cất nhà, chấm dứt tháng ngày ở trọ. Được người quen giới thiệu, H. đã mua lại miếng đất của bà T. rộng hơn 1.000m2 tại xã Thuận Giao, Thuận An với giá 3,2 tỷ đồng. Do sợ phải nộp thuế thu nhập cá nhân cao nên bà T. đã thỏa thuận cùng anh H. làm hợp đồng mua bán có sự chứng nhận của chính quyền địa phương chỉ với giá 2 tỷ đồng! Mọi thủ tục, giấy tờ liên quan tới quá trình chuyển nhượng đều do ông P., giới thiệu là chồng bà T. đứng ra giao dịch. Theo hợp đồng hai bên đã soạn thảo: thì sau 1 tháng UBND huyện cấp GCN QSDĐ cho H. thì bà T. sẽ giao đất; nhưng cho đến nay đã 2 năm trôi qua mà bà T. vẫn cố tình dây dưa không thực hiện nghĩa vụ của mình. Qua tìm hiểu, anh H. biết được bà T. đã cho ông P. thuê lại miếng đất của mình với giá 3,5 triệu đồng/tháng khiến cho anh H. không thể xây nhà hoặc thực hiện quyền sử dụng đất mà mình đã bỏ tiền mua. Những công trình hiện hữu trên đất gồm: một nhà xưởng khang trang, ký túc xá cho công nhân, nhà tạm, mái che, hàng rào... đều do ông P. đầu tư xây dựng. Không thể kiên nhẫn chờ đợi bà T. tự nguyện giao đất, anh H. đã làm đơn khởi kiện và yêu cầu bà T. phải bồi hoàn khoản tiền thiệt hại tương ứng với số tiền mà bà T. đã cho ông P. thuê đất hàng tháng trong thời gian 2 năm qua.
Phản biện lại ý kiến của anh H., bà T. thừa nhận có ký tên vào hợp đồng chuyển nhượng đất cho anh nhưng thực tế bà ta đã không chuyển giao cho anh H. Ban đầu, bà H. chuyển nhượng phần đất này cho ông X. với giá 2,4 tỷ đồng. Từ ông X. miếng đất này tiếp tục được qua tay 5 cá nhân khác “mua đi bán lại” rồi mới bán cho anh H. Quá trình chuyển nhượng đã không thông qua chính quyền địa phương, bà T. chỉ là người nhận tiền thay và đứng ra ký tên, lăn tay để hợp thức hóa việc chuyển nhượng này. Hiện đất đã đứng tên của anh H. nhưng do H. mới giao 3,2 tỷ đồng và còn nợ lại 500 triệu đồng nên bà T. không giao đất. Phần đất này bà cho ông P. thuê trước khi chuyển quyền sử dụng đất cho anh H. Hơn nữa, bà chỉ “bán đất” cho H. chứ không bán tài sản trên đất nên bà ta không chấp nhận yêu cầu bồi thường. Bà T. khẳng định “khi nào H. trả hết số tiền đã thỏa thuận thì sẽ giao đất và di dời nhà xưởng đi nơi khác”!
Liên quan đến quyền lợi của người thứ 3, ông P. trình bày: có làm hợp đồng thuê đất với bà T. tại UBND xã Thuận Giao; quá trình thuê đất ông đã thỏa thuận với bà T. là sẽ xây dựng một số công trình trên đất. Hiện nay thời hạn hợp đồng thuê vẫn còn nhưng nếu bà T. giao đất cho anh H. thì ông sẽ sẵn sàng di dời các công trình của mình đi nơi khác mà không yêu cầu bồi thường.
Quá tin lời “đường mật”!
Không phải ai cũng được may mắn như anh H., chứng minh được có đủ giấy tờ hợp pháp, không nợ tiền bà T. để giành lại quyền sử dụng đất của mình. Câu chuyện của chị Ng. ở TT.Tân Phước Khánh (Tân Uyên) lại khiến chị điêu đứng “dở khóc dở cười”. Trúng đậm trong kỳ làm ăn buôn bán dịp cuối năm, Ng. “tậu” cho mình miếng đất ở xã Tân Định làm của để dành. Phấn khởi chị chạy tìm mua đất, cuối cùng Ng. quyết định chồng 100 triệu đồng để “đặt cọc” cho bà N. mà không hề có một tờ giấy nào xác nhận. Ng. kể lại sự việc tự trách bản thân “em như bị bùa mê thuốc lú, chỉ một lần gặp mặt thế mà em lại tự nguyện đặt tiền cọc cho một người không hề quen biết”! Nghe gia đình bà N. cũng thuộc hàng trí thức, giờ đang lâm vào hoàn cảnh bi đát khiến em động lòng. Trong khi vẫn biết sổ đỏ của miếng đất này đã “cắm” trong ngân hàng; nhưng em vẫn chấp nhận chồng tiền cọc bởi vì bà N. hứa sẽ “ra ngân hàng chuộc sổ về và làm giấy chuyển nhượng quyền sang cho em”! Một tháng, hai tháng rồi cả năm trôi qua mà bà N. vẫn chưa chuộc được sổ đem về, lại nại ra đủ lý do để trốn tránh trách nhiệm. Tình cờ cho đến khi em biết được ngân hàng đã có đơn khởi kiện, buộc bà N. phải trả số tiền gần 400 triệu đồng đáo hạn bằng việc hợp thức hóa miếng đất mà em đã bỏ tiền đặt cọc. Ấm ức vì bị lừa, em đã làm đơn khởi kiện nhưng không có chứng cứ, giấy tờ hợp pháp gì nên đành ngậm ngùi trắng tay. Số tiền cực công làm lụng vất vả bỗng chốc tan biến, giờ chị Ng. chỉ biết tự trách mình vì đã đặt lòng tin không đúng đối tượng và sự ngờ nghệch của bản thân.
(Theo Bình Dương)