9 tháng kim ngạch XK cả nước ước đạt 48,5 tỷ USD, tuy nhiên hiện có nhiều yếu tố đáng lo về khả năng duy trì mức tăng trưởng cao trong những tháng cuối năm và cả năm 2009.
Theo Tổng cục Thống kê, 9 tháng qua kim ngạch xuất khẩu (XK) của cả nước ước đạt 48,575 tỷ USD, tăng 39% so với cùng kỳ năm ngoái.
Tuy nhiên, từ cuối tháng 8 đến nay đã xuất hiện nhiều yếu tố đáng lo ngại về khả năng duy trì mức tăng trưởng cao trong những tháng cuối năm và cả năm 2009.
Sản lượng xuất khẩu 16/25 mặt hàng chủ lực đạt mức thấp
Theo Bộ Công thương, trong số những nhóm, ngành hàng XK quan trọng có 2 nhóm hàng nông-lâm-hải sản và nhóm khoáng sản khó có sự tăng trưởng về lượng trong lúc giá thế giới đang “tụt dốc” mạnh.
Sản lượng gạo có thể tăng thêm 1 triệu tấn, nhưng giá gạo thế giới đang giảm mạnh, thậm chí chỉ còn một nửa, 9 tháng đầu năm, bình quân giá XK đạt gần 700 USD, nhưng những tháng cuối năm có thể chỉ đạt 450-500 USD/tấn.
Cà phê, hạt tiêu không tăng về lượng, lại đang chững về giá.
Khoáng sản, dầu thô đạt hơn 60% kế hoạch XK, trong khi đó thời gian chỉ còn hơn 2 tháng mà phải “gánh” gần 40% kế hoạch, lại vào mùa khó khai thác. Giá dầu thô thế giới đã giảm 20% so với lúc cao nhất, đang tiếp tục giảm.
Như vậy, hy vọng tăng trưởng XK chỉ còn trông vào nhóm hàng công nghiệp đang vào vụ mùa XK chính.
Một số mặt hàng công nghiệp được kỳ vọng tăng trưởng mạnh cũng chững lại. 9 tháng qua, hàng điện tử, máy tính chỉ đạt 1,89 tỷ USD so với kế hoạch 3,2 tỷ USD cả năm. Như vậy, 3 tháng còn lại mỗi tháng phải thực hiện tới 430 triệu USD (trong khi mức trung bình từ đầu năm đến nay khoảng 230 triệu USD).
Duy chỉ có hàng dệt may là nhiều khả năng vượt chỉ tiêu 9,5 tỷ USD.
Tính chung, trong tháng 9 có 16/25 mặt hàng XK chủ lực đạt mức thấp hơn so với tháng trước, khiến giá trị thực hiện của tháng 9 thấp hơn 718 triệu USD so với tháng 8...
Ngoài ra, một loạt khó khăn cho sản xuất XK chậm được khắc phục. Đó là vấn đề thiếu điện cho sản xuất, lãi suất vay vốn cao quá mức chịu đựng của DN, những ách tắc trong vận tải biển...
Việc chậm khắc phục những khó khăn kể trên sẽ ảnh hưởng lớn đến sản xuất, kinh doanh, XK của DN. Vì vậy, mặc dù tốc độ tăng trưởng xuất khẩu 9 tháng tăng tới 39%-là mức kỷ lục trong nhiều năm qua, nhưng nếu không dồn sức tháo gỡ khó khăn trong sản xuất, lưu thông, thì việc thực hiện mục tiêu đạt kim ngạch XK 65 tỷ USD trong năm nay vẫn khó hoàn thành.
Tăng tỷ trọng hàng công nghệ trong xuất khẩu!
Theo dự báo, tình hình XK sẽ còn khó khăn hơn trong năm 2009 khi thị trường của Việt Nam có khả năng bị thu hẹp.
Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ sẽ ảnh hưởng lớn đến tốc độ gia tăng kim ngạch XK vào thị trường này, vốn là thị trường XK chủ lực của Việt Nam.
Bên cạnh đó, ngành da giầy đang gặp khó khăn do EU thôi cấp ưu đãi. Mặt hàng than đá đang được quản lý lại. Vì vậy, dù năm 2009 chưa đến, nhưng “gánh nặng” tăng trưởng năm sau phải luôn cao hơn năm trước dường như đã dồn lên vai những người điều hành XK.
Hiện nay, cơ cấu XK chủ lực của Việt Nam dựa vào 3 nhóm hàng chính: Nông-thủy sản (chủ yếu chưa qua chế biến hoặc sơ chế), khoáng sản và công nghiệp.
Trong đó, lượng XK nông - thủy sản và khoáng sản đã đến ngưỡng, còn hàng công nghiệp chủ yếu là gia công, giá trị gia tăng trên các mặt hàng này thấp, khoảng 25% trên tổng kim ngạch XK.
Vì vậy, bài toán tăng số ngoại tệ thu về hiệu quả nhất của XK hiện nay và trong tương lai không phải là tăng số lượng, mà là tăng tỷ trọng nội địa hóa và hàm lượng công nghệ trên sản phẩm, cũng như tỷ trọng hàng công nghệ trong cơ cấu XK.
Bài toán này đã được đặt ra cả chục năm nay nhưng vẫn không được giải quyết.
Các DN còn thờ ơ với việc nâng cao chất lượng công nghệ, tỷ lệ đầu tư cho lĩnh vực này của các DN Việt Nam chỉ khoảng 0,2-0,3% doanh thu, thấp hơn nhiều so với 5% ở Ấn Độ và 10% ở Hàn Quốc.
Do đó, sau nhiều năm , tỷ trọng hàng Việt Nam XK đã qua chế biến, cho dù còn thô sơ, cũng chỉ dừng lại ở mức gần 40% tổng lượng hàng xuất. Doanh thu XK hàng dệt may gần 10 tỷ USD, nhưng gần 70% giá trị đó thuộc về công ty đặt hàng ở nước ngoài. Mặt hàng giày dép, điện tử, gỗ... cũng trong tình trạng tương tự khi phải phụ thuộc 70-80% nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài, thậm chí ngành công nghiệp ô tô phụ thuộc vào nhập khẩu tới 90%.
Trong khi đó, việc phát triển ngành công nghiệp phụ trợ vẫn “ì ạch”.
Trong bối cảnh hiện nay, ngành XK cần xác định hướng đi mới hiệu quả hơn. Tuy nhiên, lời giải không chỉ cần nỗ lực của mỗi DN, mà còn trong cách điều hành kinh tế vĩ mô.
Nhóm hàng điện tử viễn thông vẫn dẫn đầu nhóm ngành hàng xuất khẩu có “hàm lượng” FDI cao nhất và giá trị xuất khẩu thuộc hàng cao nhất. Tuy nhiên, hàm lượng FDI trong top 10 đã có sự sụt giảm đáng kể.
Bằng nhiều cách, hàng hóa Thái Lan đang ngày càng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam và trong tương lai không xa có thể là một thách thức lớn cho hàng Việt.
Trong bối cảnh kinh tế tiếp tục khó khăn, diễn biến phức tạp và tiềm ẩn nhiều rủi ro, Hiệp hội Rau quả Việt Nam đã đưa ra dự báo, nhu cầu tiêu thụ rau quả thế giới tiếp tục tăng từ 3,5-5% và ngành rau quả đặt mục tiêu xuất khẩu đạt 1 tỷ USD trong năm 2013.
Gần đây, nhiều lô hàng chè của Việt Nam xuất khẩu sang các nước châu Âu EU đã bị trả về do phát hiện có chứa các chất Acetamiprid và Imidacloprid. Đây là 2 chất thuộc danh mục 02, theo lộ trình sẽ bị đưa ra khỏi danh mục vào tháng 2/2015.
Trong khi các nền kinh tế lớn ở châu Âu bao gồm cả Đức, Pháp và Italy đều bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng nợ công khu vực đồng tiền chung euro, kinh tế Thụy Sĩ trong năm qua vẫn phát triển với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả năm 2012 đạt khoảng 422 tỷ USD.
Cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay cùng với những khó khăn mà kinh tế Mỹ đang phải đương đầu sẽ khiến xuất khẩu hàng hoá của nhiều nước vào thị trường Mỹ sẽ ngày càng khó khăn hơn do sức cầu trong nước của Mỹ giảm.
Sau ngày quan hệ thương mại Việt Nam - Pháp được thiết lập chính thức, những năm 90, bắt đầu khởi sắc. Giai đoạn từ năm 1989 đến 1997, xuất khẩu của Việt Nam sang Pháp tăng 25%/năm, từ năm 1997, Việt Nam luôn xuất siêu vào thị trường này.
Năm 2007, cả nước mới xuất khẩu khoảng 240 tấn hạt. Giá mua tại nhà vườn tuỳ thời điểm từ 30.000- 35.000 đồng/kg hạt khô. Sang năm 2008, sản lượng ca cao Việt Nam chưa tăng nhiều nhưng giá mua có lúc đã lên đến 50.000 đồng/kg. Giá xuất khẩu 1kg đạt chuẩn hiện là 2.750 USD thị trường Singapo.
Xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản tiếp tục tăng trưởng, nhưng do biến động giá và hạn chế trong mở rộng sản xuát cùng những khó khăn của thị trường nên tỉ trọng các mặt hàng này trong tổng kim ngạch xuất khẩu có xu hướng giảm dần.
Theo văn phòng kinh tế tài nguyên và nông nghiệp Ôxtrâylia, nhu cầu tiêu thụ than đốt nhiệt thế giới đang tăng với tốc độ chậm hơn.
Theo thoả thuận gia nhập WTO, vừa qua Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định bãi bỏ quỹ hỗ trợ phát triển. Và ngay trong quý 4 này, Bộ Tài chính cùng các bộ liên quan sẽ trình Chính phủ việc điều chỉnh, thay đổi các chính sách, cơ chế hiện hành nhằm thúc đẩy phát triển xuất khẩu phù hợp với các cam kết trong WTO.
Trong tổng số hơn 150 nước và vùng lãnh thổ nhập khẩu nông sản của Việt Nam thì Nga là thị trường truyền thống, thân thiện, lớn và rất quan trọng. Xuất khẩu sang Nga ngày càng tăng, năm 2007 đạt 239 triệu USD, trong đó thủy sản là mặt hàng chủ lực đạt gần 118,7 triệu USD, rau quả đạt gần 25 triệu USD và chè là 13 triệu USD. Trong số hơn 200 doanh nghiệp Việt Nam nuôi, chế biến và xuất khẩu thủy sản ra thế giới có 36 cơ sở đã tiếp cận thị trường Nga. Cá basa của Việt Nam ngày càng được người tiêu dùng Nga tín nhiệm.
Khi kinh doanh tại các thành phố lớn ngày càng cạnh tranh gay gắt cùng nhu cầu tiêu dùng giảm, các đại gia điện máy đã mở cuộc "tiến quân" về tỉnh lẻ để “chiều” người dân ở quê.
Nhóm hàng điện tử viễn thông vẫn dẫn đầu nhóm ngành hàng xuất khẩu có “hàm lượng” FDI cao nhất và giá trị xuất khẩu thuộc hàng cao nhất. Tuy nhiên, hàm lượng FDI trong top 10 đã có sự sụt giảm đáng kể.
Tiểu thương tại đây hàng năm đều cam kết về nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm, không bán hàng lậu và hàng nhái. Tuy nhiên, phần lớn đều cho rằng điều này rất khó khả thi.
Cục thống kê Tp.HCM vừa công bố chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2014 của thành phố đã tăng 0,12% so với tháng trước và tăng 5,47% so với cùng tháng năm trước. Như vậy, tính từ đầu năm, CPI đã tăng 1,22%, cao hơn gấp đôi mức tăng của năm 2013 (0,66%).
Hiện nay, cuộc xâm lấn của hàng giả đã khiến người ta phải nhìn nhận lại tiêu chí của sự xa xỉ và khiến nhà chức trách các nước trên thế giới đau đầu tìm cách dẹp bỏ.
Thành tích xuất khẩu của Việt Nam lẽ ra sẽ còn cao và hiệu quả hơn nữa nếu quản lý nhà nước khắc phục được những hạn chế về cơ sở hạ tầng, tệ tham nhũng, tính khó tiên liệu của chính sách, và tạo giá trị gia tăng cho hàng hoá.
Bằng nhiều cách, hàng hóa Thái Lan đang ngày càng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam và trong tương lai không xa có thể là một thách thức lớn cho hàng Việt.
Giá cá trên thị trường toàn cầu đã tăng lên mức cao nhất mọi thời đại do Trung Quốc có nhu cầu ngày càng lớn đối với những loại hải sản cao cấp như cá ngừ và hàu, trong khi sản lượng đánh bắt có chiều hướng giảm sút.
Các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá bán lẻ ở Việt Nam vẫn là lĩnh vực hấp dẫn nhất. Dù không như đồn đoán ban đầu các tập đoàn lớn sẽ tràn vào nuốt chửng thị trường Việt Nam, nhưng chỉ nhìn vào tốc độ mở rộng của Big C, Metro, Lotte... vừa qua cho thấy sức ép cạnh tranh đang nóng lên từng ngày.
Lại tương tự giá thuốc, giá thực phẩm chức năng cũng đang “nhảy múa thoải mái” khi giá mua vào với giá bán ra chênh nhau tới cả chục lần! Thị trường thực phẩm chức năng đang phát triển mạnh mẽ. Nhưng các quy định về quản lý thực phẩm chức năng đang tỏ ra quá lạc hậu. Phần quản lý giá của mặt hàng này đang bị thả nổi hoàn toàn.
Tháng 4, nhập khẩu đạt con số 6,95 tỷ USD, đưa tổng kim ngạch nhập khẩu 4 tháng qua lên hơn 24,8 tỷ USD. Với kim ngạch xuất khẩu 4 tháng là 20,1 tỷ USD, như vậy, nhập siêu những tháng đầu năm đã lên khoảng 4,7 tỷ USD, tương đương với hơn 23% kim ngạch xuất khẩu. Với cách làm như hiện nay, các chuyên gia cho rằng, mục tiêu kiềm chế nhập siêu dưới 20% trong năm nay là rất khó.
Mark Zimmeran – cựu cố vấn Chủ tịch Phòng thương mại của Mỹ ở Nhật Bản đã viết trong cuốn sách nổi tiếng “Làm ăn với người Nhật như thế nào” của ông: “việc nghiên cứu kỹ càng và nghiêm túc tâm lý người Nhật và cấu trúc xã hội của nước Nhật là cực kỳ cần thiết cho việc làm ăn có hiệu quả với người Nhật”.
Kim ngạch xuất khẩu quý I/2010 ước đạt 14 tỷ USD, giảm 1,6% so với cùng kỳ 2009. Kim ngạch nhập khẩu 3 tháng ước đạt 17,525 tỷ USD, tăng 37,6% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu cần nhập khẩu tăng 35,3%; nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu dự báo tăng khoảng 60,2% và nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu cũng tăng 33% so với cùng kỳ năm ngoái.
Sự phục hồi của kinh tế trong nước sẽ khiến nhu cầu nhập khẩu hàng hóa tăng, đặc biệt việc thực hiện giải ngân vốn FDI được dự báo tăng cao sẽ khiến nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ cho hoạt động đầu tư, xây dựng và sản xuất cũng sẽ tiếp tục gia tăng mạnh. Dự báo kim ngạch nhập khẩu năm 2010 ước đạt 74,5 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2009.
Hiệp định tự do thương mại ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) về nguyên tắc có hiệu lực từ 01/01/2010, có lộ trình cắt giảm tới gần 7.000 dòng thuế. Indonesia đã yêu cầu đàm phán lại với TQ về việc hoãn thực thi ACFTA. Việt Nam hầu như vẫn chưa có một bộ hàng rào kỹ thuật đầy đủ cho các ngành sản xuất trong nước. Mối lo nhập siêu gia tăng từ TQ và mối lo nhiều Doanh nghiệp VN mất thị trường nội địa là có cơ sở....
Theo Tổng cục Thống kê, nhập siêu năm 2009 ước tính lên tới 12,246 tỷ USD, con số này thấp hơn nhiều mức nhập siêu thực hiện lên tới 18,029 tỷ USD của năm 2008, nhưng tăng gần 250 triệu USD so với mục tiêu đề ra.
Để nâng cao giá trị gia tăng cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, góp phần phát triển bền vững nền kinh tế trong quá trình tham gia chuỗi giá trị cung ứng toàn cầu với những tiêu chuẩn ngày càng ngặt nghèo mà thị trường đặt ra, thì Việt Nam còn nhiều việc phải làm...
Xuất khẩu khoảng 25% tổng sản lượng gạo hàng năm, nhưng giá gạo xuất khẩu của Việt Nam ngày càng tụt dốc quá xa so với của Thái Lan trong thời gian qua, và những người nông dân vẫn không được hưởng lợi tương ứng với công sức của mình bỏ ra,....