Dầu thô đã giảm giá 3 tuần liên tiếp do hoạt động sản xuất tại Mỹ chậm lại làm gia tăng lo ngại rằng sự hồi phục kinh tế đang gặp nhiều khó khăn.
Nhật bản, nước tiêu thụ năng lượng lớn thứ 3 thế giới, cam kết sẽ hành động để vực dậy nền kinh tế của họ. Tuy nhiên, tin dự trữ dầu thô của Mỹ tăng hơn mức dự báo lại gây tác động xấu tới thị trường dầu.
Kết thúc tuần, 27/8, dầu thô kỳ hạn tháng 10 tại New York giảm giá 49 US cent hay 0,7% xuống 72,87 USD/thùng. Giá đã giảm 0,7% trong tuần qua và giảm 8% kể từ đầu năm.
Giá dầu Brent kỳ hạn tháng 10 giảm 52 US cent hay 0,7% trong ngày cuối tuần, xuống 74,50 USD/thùng tại London.
Giá dầu đã liên tục giảm từ phiên 20/8 cho tới 25/8, xuống mức thấp nhất trong vòng 11 tuần vào phiên 24/8, 71,63 USD/thùng, sau đó hồi phục nhẹ để rồi tiếp tục giảm giá trong 2 phiên cuối tuần.
Giá dầu giảm giữa những lo ngại dai dẳng về việc đà tăng trưởng đang có dấu hiệu đuối sức tại Mỹ có thể ảnh hưởng đến nhu cầu năng lượng.
Trong báo cáo thị trường hàng tháng công bố ngày 23/8, Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng Toàn cầu (CGES) cho rằng đến lượt mình, giá dầu ở các mức như hiện nay cũng đang đe dọa sự phục hồi kinh tế cũng như sự gia tăng trong nhu cầu năng lượng.
Tuy nhiên, Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC), vốn có thể tác động về giá trên thị trường bằng cách thay đổi hạn ngạch sản lượng, lại đang hài lòng với các mức giá hiện nay.
Theo kế hoạch, OPEC sẽ nhóm họp thường kỳ vào ngày 14/10 tới tại Vienna (Áo) để thảo luận về hạn ngạch sản lượng.
Tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội của Mỹ trong quý 2 có thể được điều chỉnh giảm xuống chỉ 1,4% so với 2,4% công bố trước đây.
Các quan chức Nhật Bản đang chịu áp lực phải đưa ra kế hoạch cụ thể nhằm ngăn chặn đà tăng giá của đồng yen, đang rất ảnh hưởng đến các nhà xuất khẩu trong nước. Bộ trưởng Tài chính Nhật Bản Yoshihiko Noda cứng rắn tuyên bố họ sẽ tiến hành các biện pháp phù hợp để ngăn chặn đà tăng giá của đồng yen nếu thấy cần thiết.
Dự trữ tăng
Dự trữ xăng dầu ở Mỹ đã tăng 8,92 triệu thùng trong tuần vừa qua, đạt 1,14 tỷ thùng, mức cao nhất trong vòng ít nhất 20 năm, theo thống ke của Bộ Năng lượng Mỹ.
Dự trữ dầu thô tăng 4,11 triệu thùng lên 358,3 triệu thùng trong tuần qua.
OPEC giảm cung
Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu lửa (OPEC) sẽ giảm 0,3% lượng xuất khẩu dầu thô tới giữa tháng tới bởi các nhà lọc dầu giảm nhập khẩu trong thời kỳ bảo dưỡng.
OPEC, cung cấp 40% dầu mỏ thế giới, sẽ xuất khẩu 23,45 triệu thùng/ngày trong 4 tuần tới 11/9, giảm so với 23,45 triệu thùng/ngày trong tháng kết thúc vào 14/8.
Giá tuần tới
Kết quả cuộc điều tra của hãng tin Bloomberg ở 49 nhà phân tích cho thấy 20 trong số họ (41%) dự báo giá dầu thô sẽ hồi phục trở lại trong tuần này sau 3 tuần giảm liên tiếp. 17 người hay 35% trong số họ dự báo giá sẽ ít thay đổi, và 12 người dự báo giá sẽ giảm.
Tuần vừa qua, 39% dự báo giá giảm và điều đó đã trở thành hiện thực.
Dầu đã giảm xuống mức giá chỉ 71,63 USD/thùng vào ngày 24/8, mức thấp nhất trong vòng 11 tuần.
Dự báo
Amrita Sen, nhà phân tích thuộc Barclays Capital nhận định giá dầu vẫn đang chịu sức ép đi xuống do những lo ngại về sự suy giảm kinh tế và việc nhu cầu dầu mỏ của Trung Quốc tăng chậm hơn trong tháng 7/2010 có thể sẽ tăng thêm tâm lý bi quan trên thị trường.
Ông John Kilduff thuộc Again Capital cũng cho rằng hiện nay có khả năng xu hướng đi xuống sẽ còn tiếp diễn, do kinh tế vẫn chưa phục hồi mạnh như mong đợi.
Ngân hàng Commerzbank AG dự báo giá dầu tại London chắc chắn sẽ giảm xuống dưới 70 USD/thùng chỉ trong ngắn hạn.
Những thông tin liên quan
Kuwait và Iraqđã nhất trí trên nguyên tắc về thỏa thuận điều chỉnh sản lượng khai thác dầu mỏ tại khu vực biên giới chung giữa hai nước, từng là nguyên nhân gây xung đột giữa hai quốc gia Arập láng giềng này. Hai quốc gia Arập này sở hữu 1/4 lượng dầu thô dự trữ trên thế giới. Phát biểu trước báo giới ngày 25/8 tại Kuwait City, Bộ trưởng Dầu mỏ Kuwait Sheikh Ahmad Abdullah al-Sabah cho biết thỏa thuận trên đạt được sau hàng loạt các cuộc thương lượng giữa quan chức hai nước. Văn kiện này kêu gọi thành lập một công ty quốc tế chung cùng khai dầu tại khu vực biên giới chung và cho phép các công ty dầu mỏ quốc tế, được sự đồng ý của cả hai nước, cùng đồng thời khai thác dầu tại cùng một địa điểm. Bộ trưởng Abdullah al-Sabah nhấn mạnh các điều khoản trong thỏa thuận nhằm tránh nguy cơ hai nước cáo buộc lẫn nhau về việc khai thác quá mức cho phép trong khu vực chung. Trong số các mỏ dầu tại khu vực biên giới chung Kuwait-Iraq có hai mỏ dầu lớn là Rumaila và Ritqa. Sản lượng khai thác dầu hiện nay của Iraq là 2,5 triệu thùng dầu thô/ngày, trong đó 1,5 triệu thùng được khai thác từ mỏ Rumaila. Trong khi đó, Kuwait chỉ khai thác được từ giếng Ritqa chưa đến 50.000 thùng/ngày.
TạiNa uy, mặc dù sản lượng dầu mỏ có phần sụt giảm, nhưng việc sản xuất dầu mỏ và khí đốt của nước này trong tương lai sẽ vẫn có sức hấp dẫn, đặc biệt là những công ty dầu mỏ nhỏ và những công ty dịch vụ xa bờ đang tìm cách ký hợp đồng khoan và nâng cấp dầu mỏ. Na Uy là quốc gia xuất khẩu dầu mỏ lớn thứ năm trên thế giới và cũng là quốc gia xuất khẩu khí đốt lớn thứ hai toàn cầu, nhưng sau khi đạt đỉnh trong năm 2001, sản lượng dầu mỏ của Na Uy đã sụt giảm nhanh chóng. “Tuy nhiên, các thềm lục địa tại Na Uy vẫn có giá trị to lớn”, nhà phân tích dầu mỏ Trond Omdal đến từ Công ty chứng khoán Artic bày tỏ với Reuters.
Ông Omdal đã trích dẫn số liệu đánh giá ước tính năm 2009 của Cục quản lý dầu mỏ Na Uy (NPD) cho hay, Na Uy vẫn có khoảng 20,8 tỷ thùng dầu mỏ đang đợi khai thác – con số này đã vượt qua tổng trữ lượng dầu mỏ thăm dò của cả Brazil (12,9 tỷ thùng) và Azerbaijan (7 tỷ thùng).
Cần tiến hành thăm dò nhiều giếng dầu hơn để duy trì sản xuất, trong thời gian dài, các giàn khoan cũ kỹ cũng cần được nâng cấp, bởi vì sau này vẫn sẽ có rất nhiều hoạt động. Điều này đồng nghĩa các công ty thăm dò sẽ nhận được nhiều hợp đồng béo bở. Ngoài ra còn có các cơ hội khác như hợp động nâng cấp các giàn khoan cũ kỹ tại biển bắc. Các công ty dầu nhỏ cỡ nhỏ cũng không thiếu cơ hội. Mấy năm trở lại đây, Na Uy vẫn nỗ lực thu hút các công ty vừa và nhỏ tiến hành các hoạt động dầu khí, bởi vì trong phương diện thăm dò những mỏ dầu nhỏ, các công ty vừa và nhỏ được đánh giá là đạt hiệu quả cao hơn.
Nga, quốc gia khai thác dầu mỏ và kim cương hàng đầu thế giới, sẽ tăng cường khai thác dầu mỏ tại Đông Siberia. Trong chuyến thăm làng Yakutia tại Tiksi, Thủ tướng Nga Vladimir Putin cho biết chính phủ nước này sẽ khai thác tích cực các loại khoáng sản có lợi tại lãnh thổ cộng hòa Yakutia. Ước tính trị giá khoáng sản tại khu vực này sẽ vào khoảng 5 nghìn tỷ USD.
“Các mỏ tại Tây Siberia đang dần cạn kiệt và chúng tôi sẽ tập trung tăng cường khai thác về phía Đông,” TTg Putin khẳng định, tuy nhiên, ông chưa đề cập tới nguồn kinh phí cũng như thời gian thực hiện cụ thể. Các mỏ tại Đông Siberia là nguồn nguyên liệu cho các đường ống dẫn dầu của Nga tới Trung Quốc và bờ biển Thái Bình Dương. Dự kiến, một đường dẫn dầu sẽ được xây dựng chạy từ thành phố Taishet thuộc vùng Irkutsk tới cảng dầu đặc biệt Kozmino trên bờ biển Thái Bình Dương, tiếp đó, dầu mỏ của Nga sẽ được cung cấp tới các nước thuộc khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Trả lời câu hỏi của phóng viên Reuters rằng liệu việc tăng cường hoạt động thăm dò địa chất tại các khu vực miền trung và Cận Bắc của đất nước có thực sự tốt hay không, ông cho biết, trước khi tiến hành thăm dò, công việc đầu tiên cần phải tiến hành là “xác định tính hiệu quả của dự án. Ví dụ, mỏ Shtokman ở khu vực ngoài khơi biển Barents là một dự án tốn kém, do vậy, chúng tôi dự kiến sẽ di chuyển xa hơn về các khu vực phía Đông của đất nước".
Kể từ đầu năm, Nga đã khai thác hơn 10 triệu thùng dầu/ngày và trở thành quốc gia khai thác dầu mỏ lớn nhất thế giới, đặc biệt, trong đó phải kể tới sản lượng dầu khai thác tại các mỏ lớn ở Đông Siberia. Năm ngoái, chính phủ Nga đã ban hành các ưu đãi thuế cho các nhà khai thác dầu mỏ tại Nga, cho phép sản lượng dầu khai thác trong nước tăng hơn 1% trong năm đó. Tuy nhiên, Bộ Tài chính Nga khẳng định sẽ ngừng các ưu đãi thuế này với lý do các khoản ưu đãi đó sẽ dẫn đến thâm hụt ngân sách của Nga trong năm nay khoảng 120 tỷ rúp.
TạiNhật Bản, mặc dù là quốc gia rất nghèo nàn về nguồn tài nguyên nhiên liệu hóa thạch, tuy nhiên họ lại là một trong số những quốc gia xuất khẩu xăng dầu thành phẩm lớn trên thế giới. Trong tháng 8 này, Nhật Bản có thể sẽ ghi nhận lượng dầu Diesel xuất khẩu cao kỷ lục do chiều hướng tăng cao của nhu cầu trong mùa hè nóng bức năm nay.
Xuất khẩu dầu diesel từ các nhà máy lọc dầu của Nhật Bản có thể tăng lên mức kỷ lục trong tháng này sau khi các nhà máy đẩy mạnh sản xuất trở lại trong bối cảnh nhu cầu về nhiên liệu gia tăng do nhiệt độ năm nay cao bất thường.
Theo ước tính của hãng tin Bloomberg, lượng dầu diesel xuất khẩu của Nhật Bản dự báo sẽ tăng ít nhất 15% trong tháng này so với cùng kỳ năm ngoái, vượt mức kỷ lục là 1,44 triệu tấn ghi nhận hồi tháng 8 năm 2008. Các nhà máy hóa dầu đang đẩy mạnh sản xuất dầu diesel trong bối cảnh phải gia tăng sản lượng sản xuất xăng nhằm đáp ứng đủ nhu cầu trong mùa hè.
Theo ý kiến của giới chuyên gia phân tích, sự gia tăng lượng dầu diesel xuất cảng từ Nhật Bản có thể đẩy giá thành xuống thấp hơn, và vốn dĩ đã ở mức thấp sẵn do nhu cầu trong khu vực là không cao, đồng thời nó cũng sẽ cắt giảm lợi nhuận của các nhà xuất khẩu của châu Á bao gồm các hãng lọc hóa dầu hàng đầu của Hàn Quốc. Biên lợi nhuận của hoạt động chế suất dầu diesel, được tính khi so sanh giá thành dầu diesel tại Singapore với giá dầu thô tại Dubai, đã sụt giảm xuống còn 11,77 USD một thùng vào ngày 17 tháng 8 từ mức cao nhất 19 tháng là 14,37USD một thùng ngày mùng 9 tháng 8, theo số liệu thống kê bởi Bloomberg.
Nhiệt độ mùa hè năm nay tại quận trung tâm tài chính Otemachi của thành phố Tokyo lên tới 37,2 độ C vào ngày 17 tháng 8, mức cao nhất trong 3 năm. Như vậy với thềm nhiệt độ cao sẽ khiến cho các phương tiện phải tiêu tốn nhiều xăng dầu hơn khi luôn phải bật điều hòa.
TạiMa-rốc, do nhu cầu tiêu thụ dầu lửa cộng với giá dầu lửa thế giới tăng mạnh khiến nhập khẩu dầu lửa của Ma-rốc đã tăng 71%, lên tới gần 1,4 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm, chiếm 23% tổng giá trị hàng hoá nhập khẩu (năm 2009 tỷ lệ này là 18%).
Là nước không có tài nguyên năng lượng nên Ma-rốc phải nhập khẩu gần như toàn bộ nhu cầu về dầu lửa. Các nhà cung cấp dầu lửa cho Ma-rốc gồm Arập Xêút, Iraq và Nga.
Nguyên nhân chính dẫn đến giá trị hoá đơn năng lượng của Ma-rốc tăng 71% là do nước này đã tăng 10% khối lượng dầu nhập khẩu và giá dầu lửa thế giới tăng 55%. Bên cạnh đó, việc đồng đôla Mỹ lên giá so với đồng nội tệ Điham trong 6 tháng đầu năm cũng góp phần làm tăng kim ngạch nhập khẩu.
Một trong những lý do gây tăng giá dầu lửa là việc cải thiện tình hình kinh tế thế giới đã khuyến khích Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA) điều chỉnh theo chiều hướng tăng dự báo cầu thế giới về dầu lửa từ 80.000 triệu thùng năm 2010 và 50.000 triệu thùng/ngày năm 2011 lên lần lượt là 86,6 triệu thùng và 87,9 triệu thùng/ngày.
Các nhà phân tích kinh tế cho rằng, nhu cầu tiêu thụ năng lượng, đặc biệt là dầu lửa của các nước mới nổi sẽ tiếp tục gia tăng trong năm 2010-2011. Ví dụ điển hình như tại Trung Quốc, việc tiêu thụ dầu lửa đã tăng 9,9% trong tháng 6 vừa qua.
Mặc dù phải nhập khẩu dầu lửa của Ma-rốc tăng mạnh nhưng kim ngạch xuất khẩu phốt phát và các sản phẩm từ phốt phát tiếp tục tăng mạnh trong 6 tháng đầu năm giúp làm giảm nhẹ thâm hụt thương mại của Ma-rốc.
Trong 6 tháng đầu năm, do nhu cầu về phân bón trên thế giới tăng mạnh nên xuất khẩu phốt phát và các sản phẩm từ phốt phát của Ma-rốc đạt 1,8 tỷ USD, tăng 78% so với cùng kỳ năm trước. Tỷ trọng của các sản phẩm này trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá đã tăng từ 15% năm 2009 lên 23% năm 2010. Xuất khẩu axít phốtphorích đạt 767 triệu USD, tăng 82% so với cùng kỳ năm 2009.
Do tăng khối lượng xuất khẩu 118% và giá bán trung bình 17% nên việc xuất khẩu phân bón tăng 155%, đạt 593 triệu USD. Việc bán phốt phát thô ra nước ngoài cũng tăng 26%, đạt 453 triệu USD trong 6 tháng đầu năm.
Bangladeshdự kiến sẽ phải tăng nhập khẩu dầu thêm 37%, lên 4,8 triệu tấn do chính phủ nước này có kế hoạch vận hành một số nhà máy điện bằng dầu diezen và dầu đốt lò, nhằm tăng sản lượng điện đáp ứng nhu cầu trong nước.
Anwarrul Karim, Chủ tịch Công ty Dầu mỏ Bangladesh (BPC) nói: "Chúng tôi đã nhận được đề nghị từ Việt Nam và đang thương lượng nhập khẩu dầu của Malaysia, để đáp ứng nhu cầu trong nước dự báo sẽ tăng cao vào giữa năm tới".
Công ty BPC, do nhà nước quản lý, là nhà nhập khẩu và phân phối dầu mỏ duy nhất của Bangladesh, tiêu thụ 3,5 triệu tấn dầu/năm, với chi phí 2,5 - 3,5 tỷ USD.
Ông Karim cho biết: "Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam PetroVietnam đã đề nghị cung cấp nhiên liệu cho BPC và hai bên sẽ tiến hành đàm phán để ấn định giá và các điều kiện khác. Ngoài ra, chúng tôi cũng đang thương lượng với một loạt các công ty xuất khẩu dầu khác, trong đó có công ty dầu quốc gia Malaysia Petronas".
Sản lượng điện của Bangladesh hiện đạt khoảng 3.500 - 4.200 MW/năm, trong khi tổng nhu cầu tiêu dùng trong nước là 5.000 MW, với tốc độ tăng trung bình hàng năm 7-8%.
Ban phát triển điện lực do nhà nước quản lý sẽ cấp phép hoạt động 18 nhà máy chạy bằng dầu diezen và dầu đốt lò nhằm tạo thêm 1.350 MW. Để làm được điều này, Bangladesh sẽ phải nhập thêm gần 1,3 triệu tấn nhiên liệu.
Hiện, Bangladesh đang nhập dầu của Công ty dầu khí quốc gia Philippines (PNOC) và Công ty dầu khí quốc gia Mandives (MNOC).
(Vinanet)
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com