Tổng cục Thống kê vừa công bố báo cáo tình hình kinh tế xã hội 10 tháng đầu năm 2008.
Theo báo cáo này, bức tranh kinh tế 10 tháng nổi bật hai gam màu sáng tối. Sáng: nông nghiệp tăng khá, FDI tăng, giá tiêu dùng giảm... Tối: công nghiệp tăng chậm, nhập siêu gia tăng...
Nhìn trên bình diện chung, kinh tế 10 tháng có những điểm đáng chú ý như sau:
1. Sản xuất công nghiệp tăng chậm lại
Trong 10 tháng đầu năm 2008, giá trị sản xuất công nghiệp ước tính tăng 15,8% so với cùng kỳ năm trước, chậm lại so với con số 16% của 9 tháng đầu năm, trong đó, khu vực kinh tế Nhà nước tăng 5,5% (Trung ương quản lý tăng 7,7%; địa phương quản lý giảm 1,7%), khu vực kinh tế ngoài Nhà nước tăng 21,1%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 17,8% (dầu mỏ và khí đốt giảm 8,2%; các ngành khác tăng 20,6%).
Sản xuất một số sản phẩm thiết yếu duy trì được tốc độ tăng cao hơn mức tăng chung như xe tải tăng 64,2%; xe chở khách tăng 53,3%; quần áo người lớn tăng 33,9%; máy giặt tăng 33,8%; sữa bột tăng 28,7%; tủ lạnh, tủ đá tăng 25,6%; thủy hải sản chế biến tăng 23,6%...
Nhiều loại sản phẩm quan trọng khác tăng thấp, thậm chí giảm so với cùng kỳ: đường tăng 5%, phân hoá học tăng 4,4%, vải dệt từ sợi bông tăng 0,2%, than đá giảm 1,2%, vải dệt từ sợi tổng hợp giảm 5%, thép tròn giảm 7,7%, dầu thô khai thác giảm 8,1%...
2. Sản xuất nông nghiệp vẫn khả quan
Tính đến 15/10/2008, các địa phương phía Bắc đã thu hoạch được 597,9 nghìn ha lúa mùa, chiếm 50,3% diện tích gieo cấy và bằng 78,3% cùng kỳ năm trước, năng suất ước tính đạt 48,8 tạ/ha, tăng 0,5 tạ/ha so với vụ mùa trước (vùng đồng bằng sông Hồng thu hoạch 317,6 nghìn ha, bằng 82,1%; vùng Bắc Trung Bộ 87,2 nghìn ha, bằng 63,3%).
Cũng đến trung tuần tháng 10, cả nước đã gieo trồng được 375 nghìn ha cây vụ đông, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngô 185,9 nghìn ha, tăng 4,4%; khoai lang 39,9 nghìn ha, tăng 1,5%; đỗ tương 62,2 nghìn ha, tăng 14,5%; rau đậu 79,3 nghìn ha, tăng 28,9%...
Chăn nuôi, tốc độ tái đàn sau dịch bệnh còn chậm do giá thức ăn và con giống vẫn ở mức cao.
Tổng sản lượng thuỷ sản 10 tháng đầu năm 2008 ước tính đạt 3806,8 nghìn tấn, tăng 9,6% so với cùng kỳ năm trước; trong đó nuôi trồng đạt 2060 nghìn tấn, tăng 19,1%; khai thác 1746,8 nghìn tấn, tăng 0,2%.
Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp tháng này chịu ảnh hưởng liên tiếp của bão lũ tại các tỉnh miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ và Duyên hải Nam Trung bộ, đã làm 8,7 nghìn ha lúa và hoa màu bị mất trắng, trong đó có 7,2 nghìn ha lúa; trên 3 nghìn ha cây ăn quả bị ảnh hưởng; gần 2 nghìn ha diện tích nuôi trồng thuỷ sản bị ngập và hư hỏng; 4,4 nghìn con gia súc và 30 nghìn con gia cầm bị chết và cuốn trôi.
Trong 10 tháng năm 2008, diện tích rừng trồng tập trung ước tính đạt 166,4 nghìn ha, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước; trồng cây phân tán 172 triệu cây, bằng 99,7%; sản lượng gỗ khai thác 2760,9 nghìn m3, tăng 4,5%.
3. Thu ngân sách vượt dự toán năm
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến ngày 15/10/2008 ước tính đạt 102,2% dự toán năm, trong đó thu nội địa đạt 96,5%, thu từ dầu thô đạt 98,9%, thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 121,7%.
Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước đạt 95,2%, thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) đạt 87,3%, thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước đạt 89,2%, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đạt 118%, thu phí xăng dầu đạt 77,9%, thu phí, lệ phí đạt 83,5%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/10/2008 ước tính đạt 87,8% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển đạt 75,7% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản đạt 71,9%), chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể (gồm cả chi cải cách tiền lương) đạt 87,5%, chi trả nợ và viện trợ đạt 86,6%.
4. Đầu tư công đạt thấp so kế hoạch, “dòng” FDI tiếp tục đổ vào Việt Nam
Tính chung 10 tháng, vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước thực hiện 75,6 nghìn tỷ đồng, đạt 77,1% kế hoạch năm, bao gồm vốn Trung ương 24,2 nghìn tỷ đồng, đạt 72,9%; vốn địa phương 51,4 nghìn tỷ đồng, đạt 79,2%.
Khối lượng thực hiện vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước của một số Bộ như sau: Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ước tính 1931,4 tỷ đồng, đạt 115,9% kế hoạch năm; Công thương 190,8 tỷ đồng, đạt 80,5%; Y tế 727,1 tỷ đồng, đạt 78%; Văn hoá, Thể Thao và Du lịch 341,1 tỷ đồng, đạt 77,3%; Giáo dục và Đào tạo 862,6 tỷ đồng, đạt 77%; Giao thông Vận tải 4402,6 tỷ đồng, đạt 70,1%; Xây dựng 100,3 tỷ đồng, đạt 28,5%.
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài đến 22/10/2008 có 953 dự án đăng ký mới, tổng số vốn 58,3 tỷ USD, tuy giảm 16,7% về số dự án nhưng tăng 497,7% về vốn so với cùng kỳ năm trước.
Nếu tính thêm 1 tỷ USD vốn đăng ký bổ sung của 247 lượt dự án được cấp phép các năm trước thì 10 tháng cả nước đã thu hút được 59,3 tỷ USD vốn đăng ký, tăng 426,6% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài thực hiện 10 tháng năm 2008 ước tính đạt 9,1 tỷ USD, tăng 38,3% so với cùng kỳ năm 2007.
5. Thương mại tăng còn do yếu tố giá
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 10 tháng qua đạt 782,3 nghìn tỷ đồng, tăng 30,7% so với cùng kỳ năm trước, tỏng đó kinh doanh thương nghiệp chiếm 82,4%, khách sạn, nhà hàng chiếm 11,3%, dịch vụ chiếm 5%, du lịch chiếm 1,3%.
Nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 10 tháng năm nay tăng 6,1% so với cùng kỳ năm trước.
6. Giá tiêu dùng bắt đầu giảm
Giá tiêu dùng tháng 10/2008 giảm 0,19% so với tháng trước, là lần giảm đầu tiên kể từ đầu năm trở lại đây. Hỗ trợ chỉ số giá là viẹc giảm giá một số nhóm hàng hóa, dịch vụ quan trọng như lương thực, thực phẩm và xăng dầu.
So với cùng kỳ năm trước, giá tiêu dùng tháng 10/2008 tăng 26,72%, so với tháng 12/2007, giá tiêu dùng tháng 10/2008 tăng 21,64%. Giá tiêu dùng bình quân 10 tháng năm 2008 so với 10 tháng năm 2007 tăng 23,15%
7. Xuất khẩu có dấu hiệu suy giảm, nhập khẩu tăng
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 10/2008 ước tính đạt 5,1 tỷ USD, giảm 3,3% so với tháng trước do lượng và giá xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu giảm (giá dầu thô giảm 20%, giá cà phê giảm 7%, gạo giảm 21% về lượng và giảm 20% về giá).
Tính chung 10 tháng năm 2008, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 53,8 tỷ USD, tăng 36,7% so với cùng kỳ năm trước.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 10/2008 ước tính đạt 5,8 tỷ USD, tăng 5,2% so với tháng trước. Tính chung kim ngạch hàng hóa nhập khẩu 10 tháng ước tính đạt 70,1 tỷ USD, tăng 42,6% so với cùng kỳ năm trước.
Một số mặt hàng chủ yếu tháng này giảm so với tháng trước: xăng dầu giảm 7,7%, sắt thép giảm 5,1%, phân bón giảm 17,1%, nhưng do ảnh hưởng của giá tăng trong 9 tháng đầu năm nên kim ngạch nhập khẩu 10 tháng năm nay của các nhóm hàng hoá chủ yếu vẫn tăng cao so với cùng kỳ năm 2007, trong đó phân bón tăng 83,4%, xăng dầu tăng 71,1%, sắt, thép tăng 57,2%, máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 33%.
Nhập siêu hàng hoá tháng 10 ước tính 700 triệu USD, cao hơn mức 237 triệu USD của tháng trước. Tính chung 10 tháng năm nay, nhập siêu 16,3 tỷ USD, tăng 66,2% so với cùng kỳ năm trước, bằng 30,3% tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu.
8. Vận chuyển hành khách và hàng hóa đạt khá
Khối lượng hàng hóa vận chuyển 10 tháng năm nay ước tính đạt 493,1 triệu tấn và 144,2 tỷ tấn/km, tăng 10,4% về tấn và tăng 41,2% về tấn/km so với cùng kỳ năm 2007
Vận tải hàng hóa đường bộ đạt 353,2 triệu tấn và 18,6 tỷ tấn/km, tăng 11% về khối lượng vận chuyển và tăng 14,9% về khối lượng luân chuyển; vận tải đường biển đạt 42,8 triệu tấn và 117,1 tỷ tấn/km, tăng tương ứng 30,2% và 50,3%; đường sông đạt 89,8 triệu tấn và 4,6 tỷ tấn/km, tăng 2,1% và 1,2%; đường sắt 7,2 triệu tấn và 3,6 tỷ tấn/km, giảm 2,2% và tăng 11%.
9. Lượng khách quốc tế vào Việt Nam vẫn tăng
Khách quốc tế đến Việt Nam 10 tháng năm 2008 ước tính đạt 3,6 triệu lượt người, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, khách du lịch tăng chậm, chỉ đạt 2,2 triệu lượt người, tăng 2,7%. Khách đến Việt Nam vì công việc đạt 723,3 nghìn lượt người, tăng 34,1%. Trong khi đó, diện khách quốc tế thăm thân nhân chỉ đạt 443,4 nghìn lượt người, giảm 12%.
Khách quốc tế đến qua đường hàng không đạt 2,8 triệu lượt người, tăng 2,7% so với cùng kỳ năm trước; đường bộ 678,8 nghìn lượt người, tăng 18,8%; đường biển 127,5 nghìn lượt người, giảm 32,4%.
Một số quốc gia có lượng khách đến lớn vẫn duy trì được mức tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Trung Quốc 538,6 nghìn lượt người, tăng 14,7%; Mỹ 357,3 nghìn lượt người, tăng 4,6%; Thái Lan 154 nghìn lượt người, tăng 14,5%...
Đáng chú ý là một số nước có lượng khách tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước như: Philippines trên 39 nghìn lượt người, tăng 46,1%; Phần Lan 6,8 nghìn lượt người, tăng 39,7%; Na Uy 12,9 nghìn lượt người, tăng 34%; Thụy Điển 23,2 nghìn lượt người, tăng 28,4%...
10. Bưu chính viễn thông tiếp tục tăng tốc
Số thuê bao điện thoại phát triển tháng 10 ước tính đạt 2,1 triệu thuê bao, nâng tổng số thuê bao 10 tháng năm 2008 lên 19 triệu thuê bao, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm 2007.
Tính đến cuối tháng 10/2008, ước tính cả nước có 70,9 triệu thuê bao điện thoại, trong đó Tập đoàn Bưu chính Viễn thông (VNPT) đạt 39,3 triệu thuê bao, gồm 10,2 triệu thuê bao điện thoại cố định và 29,1 triệu thuê bao điện thoại di động.
Số thuê bao Internet phát triển đến cuối tháng 10/2008 đạt 6,4 triệu thuê bao, trong đó VNPT đạt 3,7 triệu thuê bao. Số người sử dụng internet đến cuối tháng 10/2008 ước tính 20,9 triệu người.
Tổng doanh thu thuần bưu chính, viễn thông 10 tháng ước tính đạt 54,9 nghìn tỷ đồng, tăng 24,4% so với cùng kỳ năm 2007, riêng VNPT đạt 39,6 nghìn tỷ đồng, tăng 15,9%. Doanh thu viễn thông đạt 36,2 nghìn tỷ đồng, tăng 15,7%, doanh thu bưu chính 1,6 nghìn tỷ đồng, tăng 26%.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Dự báo kinh tế thế giới năm 2009 vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, khó lường mặc dù đến nay tình hình giá cả các mặt hàng chiến lược đã có xu hướng giảm dần.
Phát biểu tại một hội thảo diễn ra sáng 6/11 ở Hà Nội, Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn Sinh Hùng khẳng định phát triển mạng lưới giao thông đường bộ hiện đại, trong đó có hệ thống đường cao tốc, là mục tiêu trọng tâm của Việt Nam để tạo tiền đề, động lực cho phát triển kinh tế-xã hội.
Báo cáo của Chính phủ tại Kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XII cho biết, tổng thu Ngân sách Nhà nước (NSNN) năm 2008 ước khoảng 399 nghìn tỷ đồng, tổng chi NSNN ước 474,28 nghìn tỷ đồng, bội chi NSNN năm nay khoảng 66,2 nghìn tỷ đồng, bằng 4,95% GDP.
Việt Nam tăng sáu bậc trong bảng xếp hạng môi trường kinh doanh toàn cầu, từ vị trí 71 (trong số 82 nước) của giai đoạn 2004-2008 lên vị trí 65 của giai đoạn 2009-2013
Tại Hội nghị giao ban xuất nhập khẩu (XNK) diễn ra tại thành phố Hồ Chí Minh, Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Thành Biên cho biết: kim ngạch XNK 9 tháng của năm 2008 đều tăng cao, trong đó xuất khẩu (XK) đạt 48,56 tỷ USD, tăng 39%; NK đạt 64,1 tỷ USD, tăng 47,6% so cùng kỳ năm 2007.Để đạt những mục tiêu XNK trước tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động và diễn biến phức tạp, hội nghị đã nêu một số giải pháp cần triển khai trong thời gian tới.
Trong chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch, khi lạm phát được kiềm chế và các cân đối vĩ mô ổn định tốt hơn sẽ phấn đấu đạt tộc độ tăng trưởng GDP cao hơn mức 7%.
Ngày 8/10, Diễn đàn Kinh tế Thế giới đã công bố kết quả xếp hạng khả năng cạnh tranh toàn cầu 2008. So với năm ngoái, Việt Nam tụt hai bậc từ 68 xuống 70.
Theo Bộ Công thương, tháng 9/2008 giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 55.720 tỷ đồng, tăng 0,1% so với tháng 8 và tăng 15,2% so cùng kỳ năm 2007.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.