Dự báo kinh tế thế giới năm 2009 vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, khó lường mặc dù đến nay tình hình giá cả các mặt hàng chiến lược đã có xu hướng giảm dần.
Trong nước, nền kinh tế nước ta dự báo còn gặp nhiều khó khăn thách thức. Cân đối vĩ mô chưa ổn định, sức cạnh tranh cả 3 cấp độ còn yếu, ảnh hưởng lạm phát năm 2008 còn kéo dài, đời sống người lao động còn nhiều khó khăn, chất lượng nguồn nhân lực, hệ thống kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng được yêu cầu. Bên cạnh đó chúng ta cũng có những thuận lợi: thể chế kinh tế thị trường dần dần được hoàn thiện; sự ổn định chính trị và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày được nâng cao; sự hợp tác kinh tế quốc tế thông qua các hiệp định thương mại song phương và đa phương được ký kết tạo thêm môi trường và điều kiện mở rộng thị trường hàng hoá, dịch vụ kết quả bước đầu của các biện pháp kiềm chế lạm phát đã và đang tiếp tục thực hiện là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự phát triển.
Để góp phần đạt tốc độ tăng trưởng GDP cả nước năm 2009 đề ra khoảng 7% ngành Công Thương phấn đấu đạt những mục tiêu sau đây:
Giá trị sản xuất công nghiệp tăng khoảng 16,5% so với năm 2008. Giá trị gia tăng toàn ngành công nghiệp tăng 10% so với thực hiện năm 2008 (công nghiệp và xây dựng tăng 8%).
Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đạt 76,7 tỉ USD, tăng 18% so với thực hiện năm 2008.
Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá là 96,6 tỉ USD, tăng 15%. Nhập siêu hàng hoá năm 2009 khoảng 20 tỉ USD, bằng 26% so với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ trên thị trường nội địa đạt khoảng 1.200-1.250 nghìn tỉ đồng, tăng khoảng 24-28% so với ước thực hiện năm 2008.
Bảo đảm cung ứng đủ các mặt hàng trọng yếu cho nhu cầu sản xuất và đời sống, không để xảy ra sốt hàng, sốt giá, góp phần kiềm chế tăng chỉ số giá tiêu dùng theo mục tiêu của Chính phủ đề ra.
Đối với sản xuất công nghiệp:
Tiếp tục phát triển công nghiệp với tốc độ tăng trưởng cao đi đôi với nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hiệu quả của sản xuất. Tập trung phát triển các ngành, sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao, các sản phẩm xuất khẩu.
Đảm bảo cân đối cung cầu của nền kinh tế về những sản phẩm công nghiệp chủ yếu như điện, than, thép xây dựng, xăng dầu, phân bón… trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất trong nước, đáp ứng nhu cầu trong nước các sản phẩm công nghiệp tiêu dùng. Tập trung nguồn lực và sự chỉ đạo để đưa thêm được khoảng 3.842 MW công suất các nhà máy điện, trong đó 1415 MW ntừ 2008 chuyển sang 2009 và 2427 MW thuộc kế hoạch năm 2009, vận hành ổn định nhà máy lọc dầu Dung Quất, nhà máy DAP.
Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp theo hướng tăng tỉ trọng công nghiệp chế biến, khai thác và chế biến sâu khoáng sản, điện, nước, gas và giảm tỉ trọng công nghiệp khai khoáng thông qua việc khuyến khích đầu tư các doanh nghiệp áp dụng công nghiệp chế biến sâu, tăng giá trị gia tăng ngành công nghiệp. Giảm sự lệ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu góp phần kiềm chế lạm phát, giảm nhập siêu.
Khuyến khích phát triển mạnh hơn công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản, công nghiệp sử dụng công nghệ cao, công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, công nghiệp hỗ trợ nhằm tăng dần tỉ lệ nội địa hoá các sản phẩm điện tử, ôtô, xe máy, tàu thuỷ, nguyên phụ liệu ngành dệt may, giày dép, nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến nông lâm sản (sữa nguyên liệu bột giấy, nguyên liệu thuốc lá).
Khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn với tốc độ tăng trưởng không thấp hơn tốc độ bình quân cả nước để tạo ra nhiều việc làm mới, góp phần tăng nhanh thu nhập cho nông dân, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế lao động theo hướng công nghiệp hoá, xoá đói, giảm nghèo và phát triển đời sống văn hoá xã hội ở nông thôn.
Tìm mọi biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu để tạo tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao hơn tốc độ tăng nhập khẩu, góp phần giảm nhập siêu, tăng tỉ trọng xuất khẩu hàng hoá đã qua gia công chế biến, hạn chế xuất khẩu sản phẩm thô.
Tham gia có hiệu quả vào việc ổn định thị trường trong nước những mặt hàng trọng yếu như xăng dầu, sắt thép, xi măng, phân bón, lương thực, thực phẩm, vật liệu xây dựng, thuốc chữa bệnh…., bảo đảm đáp ứng nhu cầu và kiềm chế tăng giá đột biến các mặt hàng này, chủ động đề ra và áp dụng nhiều phương án khắc phục tình trạng thiếu điện, nhất là trong mùa khô, bảo đảm điện cho sản xuất và tiêu dùng thiết yếu, bảo đảm công bằng và công khai trong điều tiết.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Phát biểu tại một hội thảo diễn ra sáng 6/11 ở Hà Nội, Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn Sinh Hùng khẳng định phát triển mạng lưới giao thông đường bộ hiện đại, trong đó có hệ thống đường cao tốc, là mục tiêu trọng tâm của Việt Nam để tạo tiền đề, động lực cho phát triển kinh tế-xã hội.
Báo cáo của Chính phủ tại Kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XII cho biết, tổng thu Ngân sách Nhà nước (NSNN) năm 2008 ước khoảng 399 nghìn tỷ đồng, tổng chi NSNN ước 474,28 nghìn tỷ đồng, bội chi NSNN năm nay khoảng 66,2 nghìn tỷ đồng, bằng 4,95% GDP.
Việt Nam tăng sáu bậc trong bảng xếp hạng môi trường kinh doanh toàn cầu, từ vị trí 71 (trong số 82 nước) của giai đoạn 2004-2008 lên vị trí 65 của giai đoạn 2009-2013
Tại Hội nghị giao ban xuất nhập khẩu (XNK) diễn ra tại thành phố Hồ Chí Minh, Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Thành Biên cho biết: kim ngạch XNK 9 tháng của năm 2008 đều tăng cao, trong đó xuất khẩu (XK) đạt 48,56 tỷ USD, tăng 39%; NK đạt 64,1 tỷ USD, tăng 47,6% so cùng kỳ năm 2007.Để đạt những mục tiêu XNK trước tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động và diễn biến phức tạp, hội nghị đã nêu một số giải pháp cần triển khai trong thời gian tới.
Trong chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch, khi lạm phát được kiềm chế và các cân đối vĩ mô ổn định tốt hơn sẽ phấn đấu đạt tộc độ tăng trưởng GDP cao hơn mức 7%.
Ngày 8/10, Diễn đàn Kinh tế Thế giới đã công bố kết quả xếp hạng khả năng cạnh tranh toàn cầu 2008. So với năm ngoái, Việt Nam tụt hai bậc từ 68 xuống 70.
Theo Bộ Công thương, tháng 9/2008 giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 55.720 tỷ đồng, tăng 0,1% so với tháng 8 và tăng 15,2% so cùng kỳ năm 2007.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.