Chi phí logistics của Việt Nam cao so với nhiều nước, trở thành gánh nặng cho các doanh nghiệp và giao thương hàng hóa. Nguyên nhân đầu tiên là vì hệ thống cảng biển còn thiếu, nhất là cảng có năng lực trung chuyển container quốc tế.
Chỉ tính riêng việc do thiếu cảng trung chuyển nên hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước phải trung chuyển qua các cảng ở Hồng Kông, Singapore đã làm đội thêm chi phí trong vận chuyển với trị giá hơn 1,7 tỉ đô la Mỹ mỗi năm.
Mất nhiều tiền vì … thiếu cảng!
Tiến sĩ Nguyễn Tuấn Hoa, Phó giám đốc Trung tâm học tập phát triển thuộc UBND TPHCM trong các năm qua đã cùng nhiều nhà khoa học khác trong nước tham gia dự án Nghiên cứu phát triển logistic TPHCM; riêng ông Hoa là chủ nhiệm Hệ thống thông tin logistic, một nhánh của dự án này. Theo ông Hoa, khối lượng hàng hóa vận chuyển qua các cảng biển của Việt Nam năm ngoái khoảng 178 triệu tấn, trong đó vận chuyển bằng container là 4,3 triệu TEUs (container 20 feet).
Điều đáng quan tâm là chi phí logistic ở các nước càng phát triển thì càng thấp còn chậm phát triển như Việt Nam thì càng cao. Chẳng hạn ở Mỹ chi phí logistic chiếm 9,5% GDP, Nhật là 11%, Hàn Quốc 16%, Trung Quốc 21,6% còn Việt Nam, theo dự đoán của ông Hoa, logistic chiếm tới 25% GPD.
Chi phí logistic của Việt Nam trong năm ngoái khoảng 17 tỉ đô la Mỹ trong GDP của nền kinh tế 71 tỉ đô la Mỹ.
Trong một quốc gia mà nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu hàng hóa thì logistic đóng vai trò rất lớn đến sự phát triển kinh tế. Hiện tại, cả nước có 800 - 900 doanh nghiệp tham gia hoạt động trong lĩnh vực logistic, nhưng phần lớn đóng ở TPHCM, nơi có thị trường logistic có giá trị tới 12 tỉ đô la Mỹ hàng năm, chiếm 60% cả nước, khi 70% hàng hóa xuất nhập khẩu đi qua TPHCM.
Tiến sĩ Lê Văn Bảy, một chuyên gia nghiên cứu về logistic của trường Đại học Kỹ thuật TPHCM, cho rằng đa phần các công ty kinh doanh dịch vụ logistic ở Việt Nam hiện nay chưa chuyên nghiệp, theo kiểu “có đăng ký một chút giao nhận, có đăng ký một chút vận tải hàng hóa, hay có một chút khai thuê hải quan”.
Thế nhưng, câu hỏi là tại sao chi phí logistic của Việt Nam chiếm quá lớn trong GDP, ông Hoa cho biết nguyên nhân đầu tiên thuộc về hệ thống cảng biển. Cả nước hiện nay có 114 cảng biển, phần lớn là cảng nhỏ, chỉ có 14 cảng được xem là mức trung bình của quốc tế như Hải Phòng, Cát Lái hay VICT… nhưng đều là “cảng biển ở trên sông”. Các cảng biển đang gánh nhiều hàng hóa nhất Việt Nam ở TPHCM là một điển hình.
Chúng ta thiếu cảng nước sâu để trung chuyển quốc tế, nên hàng xuất khẩu của Việt Nam buộc phải gom lại, dùng tàu chở sang các cảng trung chuyển trong khu vực Singapore hay Hồng Kông rồi mới đi ra quốc tế.
Do vậy, gần như bình quân một container hàng xuất khẩu của Việt Nam xuất đi thì doanh nghiệp trong nước phải trả thêm cước phí gom hàng sang cảng trung chuyển khoảng 400 đô la Mỹ. Có nghĩa năm ngoái Việt Nam đã mất thêm hơn 1,7 tỉ đô la Mỹ cước phí vì thiếu cảng trung chuyển.
Cảng cửa ngõ quốc gia
Theo ông Hoa, cảng nước sâu đảm nhận trung chuyển hàng hóa quốc tế không chỉ đơn thuần là đầu mối xuất nhập khẩu hàng hóa, mà còn là trung tâm của việc đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông đường bộ, đường sắt, hàng không, tức “cảng nước sâu phải là đích đến của hệ thống hạ tầng cho logistic”.
Điều bất hợp lý hiện nay là hệ thống giao thông phục vụ phát triển kinh tế của Việt Nam không những yếu kém, chưa đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa quy mô lớn; cụ thể là đợt tắc hàng hóa tại các cảng tại TPHCM vào tháng 4 năm nay mà nhà xuất nhập khẩu nào cũng biết.
Tuy nhiên, càng bất hợp lý hơn khi toàn bộ hệ thống giao thông hiện nay, như đường bộ, đường hàng không hay đường sắt đều hướng tới đích là đô thị, tức chỉ phục vụ con người hay cao lắm là vận chuyển hàng hóa nội địa, mà không hề hướng tới cảng.
Trong dự án đang nghiên cứu của mình, ông Hoa đề nghị nhà nước cần xây dựng chiến lược phát triển logistic dài hạn, tới năm 2030. Thực tế đáng buồn hiện nay là ngành nào cũng có chiến lược phát triển, có tầm nhìn nhưng logistic chiếm vị trí lớn trong nền kinh tế thì lại chưa có.
Đề xuất thứ hai cực kỳ quan trọng, cần phải có cảng nước sâu đóng vai trò cửa ngõ quốc gia vì 40 - 60% chi phí logistic là vận tải biển. Cảng nước sâu mang tính trung chuyển quốc tế trên thế giới phải đáp ứng 60 tiêu chuẩn như độ sâu mớm nước phải 14 mét trở lên, phải có chân hàng (nơi tập trung hàng hóa), không gian v.v…
Ông cũng cho biết, nhiều nơi ở Việt Nam có đủ điều kiện xây dựng cảng nước sâu, nhưng chỉ là một cảng kinh tế thông thường chứ không thể là cảng trung chuyển quốc tế. Khu vực Vân Phong đủ điều kiện xây dựng cảng nước sâu nhưng lại thiếu chân hàng.
“Không ai có thể bắt doanh nghiệp ở phía nam chở ra Vân Phong để đưa xuống tàu hay hàng ngoài Đà Nẵng chở vào”, ông nói và cho biết thêm rằng Vũng Áng ở Hà Tĩnh hay Dung Quất ở Quảng Ngãi là cảng “có mực nước sâu chứ không thể là cảng trung chuyển, không thể là cửa ngõ quốc gia khi nó không đáp ứng đủ các điều kiện của một cảng trung chuyển”.
Đề xuất thứ ba là đầu tư phát triển hạ tầng phải hướng tới các cảng cửa ngõ quốc gia chứ không phải hướng tới đô thị như hiện nay. Thứ tư là hành lang pháp lý. Logistic đã được đề cập một chương trong Luật Thương mại nhưng mang tính chung chung, các văn bản dưới luật gần như chưa có gì.
Hai đề xuất cuối cùng của dự án là chuẩn bị nguồn nhân lực và xây dựng hệ thống thông tin logistic. Cái yếu dễ thấy nhất của logistic hiện nay là thông tin, mà theo ông Hoa là những con số về thị trường, hạ tầng, số lượng doanh nghiệp tham gia, chi phí logistic hay các quy định của hải quan, quy trình của các cảng thì chẳng có một cơ quan nào thống kê hay cung cấp cho doanh nghiệp khi cần, mà mỗi doanh nghiệp phải tự tìm theo cách riêng của mình.
Ngay cả quy trình giao nhận hàng hóa ở các cảng tại TPHCM thì mỗi nơi thực hiện mỗi kiểu cũng làm khó khăn thêm cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Xây dựng cảng trung chuyển ở đâu?
Ông Hoa cho biết hiện nay có một số thông tin là các hãng tàu nước ngoài cho rằng Việt Nam chỉ nên xây dựng cảng nước sâu đóng vai trò trung chuyển quốc tế ở Cái Mép, Bà Rịa-Vũng Tàu là phù hợp nhất. Tuy nhiên, ông Hoa nói “họ xúi Việt Nam xây ở Cái Mép để họ dễ dàng trung chuyển hàng sang Singapore”.
Cái Mép tuy có mực nước sâu nhưng theo ông thì thiếu không gian phát triển, tức chưa đáp ứng nhiều tiêu chuẩn của cảng trung chuyển.
Với giá trị thị trường logistic lớn như đã nói và tăng trưởng nhanh, 20 - 25% mỗi năm, ông Hoa cho rằng việc xác định đầu tư xây dựng cảng cửa ngõ quốc gia rất quan trọng.
Việt Nam nên xây dựng 3 cảng trung chuyển mang tính chất cửa ngõ quốc gia là Hải Phòng, Quảng Trị và TPHCM.
Ngoài đầu mối giao thương hàng hóa cho miền Bắc, Hải Phòng còn “gánh” thêm 4 tỉnh vùng tây nam của Trung Quốc mà phía Việt Nam đã cam kết với Trung Quốc. Trên thực tế phía Trung Quốc đã đầu tư hệ thống giao thông đường bộ cũng nhắm đến hàng hóa vùng tây nam của họ đi qua cảng Hải Phòng.
Quảng Trị là điểm cuối của hành lang kinh tế Đông Tây. Ngoài việc đảm nhận vai trò giao thương hàng hóa cho miền Trung, vị trí này còn đảm nhận đầu mối giao thương hàng hóa cho Lào (không có cảng biển) và vùng đông bắc Thái Lan xuất khẩu đi Đông Á. Thực tế thì hiện tại các doanh nghiệp của Lào và vùng đông bắc Thái Lan đã xuất khẩu hàng trung chuyển qua cảng Đà Nẵng.
Còn TPHCM, theo ông Hoa, là điểm cuối của tuyến đường Xuyên Á và là đầu mối giao thương của cả khu vực phía nam. Trong bản đồ mà ông Hoa trình bày thì vị trí xây cảng trung chuyển nằm kẹp giữa TPHCM - Đồng Nai và Bà Rịa-Vũng Tàu. Cái Mép không nằm trong khu vực này.
ông Hoa cho rằng có một vị trí ở Cần Giờ thích hợp cho cảng trung chuyển và đã đề xuất toàn bộ những ý tưởng này lên Thành phố và Chính phủ.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Nhiều chuyên gia kinh tế thuộc các thể chế tài chính - kinh tế uy tín của thế giới có nhận định chung là tình hình kinh tế Việt Nam đã bắt đầu ổn định và đang có những chuyển biến tích cực so với thời điểm giữa năm nay.
Phát biểu trong “Diễn đàn kinh tế 2008” diễn ra tại Hà Nội ngày 2/10, chuyên gia kinh tế Võ Trí Thành nhận định kinh tế vĩ mô đã có dấu hiệu tích cực nhưng mức độ bất ổn vĩ mô vẫn còn rất cao vào những tháng cuối năm.
Bộ Công Thương cho biết trong tháng 10, chỉ số giá hàng hoá và dịch vụ (CPI) sẽ tiếp tục duy trì mức tăng thấp, chỉ khoảng 0,2% so với tháng 9, sau khi chỉ tăng 0,18% trong tháng 9.
Tại cuộc họp ngày 26/9/2008, Tổ Điều hành thị trường trong nước thuộc Bộ Tài chính nhận định chỉ số giá tiêu dùng năm 2008 sẽ đạt mục tiêu khống chế dưới mức 25% và dự báo thị trường hàng hóa quý 4 mặc dù vào chu kỳ tăng giá cuối năm nhưng mức tăng sẽ không đột biến.
Ngày 26/9/2008, tại hội nghị giao ban sản xuất tháng 9, tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Cao Viết Sinh nhận định tốc độ tăng trưởng GDP trong quý III đạt 6,55%, tuy vẫn thấp hơn nhiều so với quý I (9,38%) nhưng đã cao hơn so với quý II (5,38%).
Việc chỉ số giá tiêu dùng tháng 9 chỉ tăng 0,18% so với tháng trước, thấp nhất từ đầu năm đến nay, được xem là tín hiệu khả quan cho diễn biến giá tiêu dùng và tình hình kinh tế vĩ mô từ nay đến cuối năm.
Diễn đàn đầu tư quốc tế lần thứ VII "Sochi-2008" diễn ra trong các ngày 19-20/9 tại thành phố biển Sochi (Nga) đã kết thúc tốt đẹp với 114 hiệp định thương mại và văn bản ghi nhớ được ký kết, trị giá 14,42 tỷ euro.
Nhiều tham luận của các đại biểu trình bày tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam lần thứ 2, diễn ra ngày 19/9 tại Hà Nội, cho rằng việc hạ mức tăng trưởng trong bối cảnh hiện nay sẽ làm cho nền kinh tế Việt Nam bền vững hơn trong các năm sau.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.