Những tháng cuối năm này, đồng Việt Nam (VND) đang chịu áp lực giảm giá ngày càng tăng so với đồng đôla Mỹ (USD). Đây là nghịch lý trong bối cảnh đồng USD đang có xu hướng yếu đi trên thị trường quốc tế.
Viện phó Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương Võ Trí Thành cho rằng biên độ dao động là nhằm tạo ngưỡng trần để kiểm soát tỷ giá, không có nghĩa cho phép cộng dồn chênh lệch vào trần lãi suất của ngày hôm trước. Tỷ giá liên ngân hàng vẫn là dây neo thị trường trong giới hạn an toàn và khả năng mất giá của đồng VND là rất nhỏ.
Ông giải thích như thế nào về áp lực tỷ giá giữa VND và USD ngày càng gia tăng gần đây, nhất là các tháng còn lại trong năm nay?
Ông Võ Trí Thành: Bản thân tiền đồng đang chịu áp lực giảm giá vì rất nhiều nguyên nhân. Điều này đang tạo thêm áp lực khá căng thẳng cho thị trường ngoại hối. Thực tế, năm nay, lạm phát tại Việt Nam đã giảm đáng kể và tương đối ổn định ở mức 7% nhưng vẫn còn cao so với các nước trong khu vực.
Dự báo năm 2010, lạm phát có thể còn tăng tới 8-9%. Ngoài ra, thâm hụt thương mại và cán cân vãng lai cũng ảnh hưởng rất lớn tới cán cân thanh toán quốc tế cũng như sự cân bằng tương đối trong cán cân thanh toán tổng thể.
Khủng hoảng tài chính cũng đã khiến thâm hụt cán cân thanh toán tổng thể của Việt Nam mỗi năm có thể lên tới từ 1,5-2 tỷ USD. Chưa kể đến, các dòng vốn chu chuyển đổ về Việt Nam (qua kiều hối, FDI...) đang có xu hướng giảm mạnh khiến cán cân thanh toán tổng thể chắc chắn sẽ có thâm hụt. Và chính sự thiếu hụt này đang tiếp tục gây thêm áp lực cho thị trường.
Liệu có nguyên nhân do tâm lý, bên cạnh các nguyên nhân vĩ mô trên, thưa ông?
Ông Võ Trí Thành: Thị trường ngoại hối Việt Nam cũng có hiện tượng phân khúc và thiếu tính thống nhất. Vẫn tồn tại khoảng cách giữa nhà nhập khẩu và xuất khẩu, giữa người dân và Nhà nước, nên con số tổng thể không phản ánh đầy đủ bức tranh về áp lực làm tăng hay giảm về đồng VND.
Thực tế đồng tiền VND đang mất giá so với đồng USD. Điều này thực sự là một nghịch lý trong bối cảnh đồng USD đang có xu hướng yếu đi trên thị trường quốc tế và nhiều quốc gia đang cùng nỗ lực can thiệp để bảo vệ đồng USD, bởi nếu đồng nội tệ của họ tăng giá quá đáng hơn so với đồng USD sẽ cản trở lớn tới hoạt động xuất khẩu và cán cân thanh toán thương mại.
Ông đánh giá thế nào về chính sách điều hành tỷ giá mà Việt Nam đang áp dụng hiện nay?
Ông Võ Trí Thành: Nhiều năm qua, không thể phủ nhận sự linh hoạt hơn, có tính toán hơn trong chính sách điều hành tỷ giá tại Việt Nam, song vẫn còn tồn tại một số bất cập. Mức độ thiếu hụt gây căng thẳng tỷ giá trên thị trường thực sự không phải là vấn đề khó.
Điều đáng phải suy nghĩ nhiều nhất vẫn là lòng tin trên thị trường. Bởi vẫn còn thiếu sự cam kết và thông tin không minh bạch. Điều này ảnh hưởng tới khả năng tiên liệu và làm giảm sự tín nhiệm - yêu cầu không thể thiếu đối với mọi hoạt động kinh doanh.
Đến nay, cũng chưa có nghiên cứu đủ sâu sắc để tính toán những tác động của việc điều chỉnh tỷ giá tới những biến số như thương mại, cán cân thanh toán quốc tế, lạm phát. Điều này hạn chế sự linh hoạt của chính sách tỷ giá và hiệu lực của chính sách tiền tệ. Bởi một chính sách tỷ giá tốt sẽ đảm bảo được khả năng cạnh tranh của nền kinh tế và tạo ra một dư địa đủ lớn để chính sách tiền tệ có thể vận động được một cách hiệu quả, nhằm hạn chế đầu cơ và phản ánh rõ hơn cán cân cung cầu của thị trường.
Đã có nhiều gợi ý rằng Việt Nam nên dùng một loại ngoại tệ khác thay thế USD. Quan điểm của ông về việc này thế nào?
Ông Võ Trí Thành: Thực tế việc thay thế đồng USD là rất khó và nếu có thì sẽ còn lâu mới xảy ra dù cho đồng USD có yếu đi và nền kinh tế Mỹ cũng bớt ngạo mạn hơn. Bởi, Mỹ vẫn là quốc gia có nền kinh tế cực lớn trên thế giới và có tầm ảnh hưởng quyết định.
Trước đây đã từng có chủ trương đa dạng hóa đồng tiền thanh toán quốc tế. Dù nhiều nước cũng đang tìm mọi cách để đa dạng hóa nguồn dự trữ ngoại tệ, tăng cường hơn, chia sẻ hơn thông qua việc ký kết các hiệp định hoán đổi tiền tệ hoặc sử dụng các đồng tiền khác trong giao dịch thương mại, đầu tư song tỷ trọng sử dụng đồng USD vẫn là lớn nhất.
Việc thay thế đồng USD bằng 1 đồng tiền khác dù cho có đủ mạnh cũng không thể khẳng định liệu có khả năng hạn chế bớt rủi ro hay bớt biến động hay không. Bởi rủi ro là sự khó tính toán được những biến động của tỷ giá, của thị trường. Điều này cũng chưa được minh chứng bằng bất cứ một nghiên cứu khoa học nào.
Trong giao dịch thương mại, kể cả đối những quốc gia mà thị trường phái sinh tương đối phát triển, các doanh nghiệp vẫn phải chấp nhận đối mặt với những rủi ro từ nợ nước ngoài, sự biến đổi và chêch lệch về tỷ giá.
Vậy theo ông, tỷ giá sẽ đi theo xu hướng nào với những dữ liệu hiện nay?
Ông Võ Trí Thành: Tôi cho rằng với lượng dự trữ ngoại hối hiện vào khoảng 20 tỷ USD thì việc can thiệp và điều chỉnh tỷ giá khi cần thiết cũng không phải là vấn đề gì ghê gớm.
Hơn nữa, trong dân vẫn còn trôi nổi 1 số lượng ngoại tệ cực kỳ lớn hoặc đang gửi trong ngân hàng thì tại sao Việt Nam vẫn căng thẳng về ngoại tệ. Bằng cách nào đó, nên tăng cường khả năng phối hợp giữa chính sách tỷ giá với các công cụ khác như lãi suất, điều phối... nhằm làm giảm căng quan hệ cung cầu và góp phần tạo dựng lòng tin đối với thị trường./.
Theo kết quả lấy phiếu tín nhiệm các chức danh, cán bộ chủ chốt do Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội công bố chiều 4/7, ông Nguyễn Đình Đức, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội là người có số phiếu “tín nhiệm cao” ít nhất trong số 18 cán bộ lãnh đạo Hà Nội, với 27 phiếu. Ông Đức cũng là người có số phiếu “tín nhiệm thấp” nhiều nhất với 23 phiếu.
Trong một cuộc trò chuyện với các cán bộ, nhân viên nữ công tác tại Bộ Ngoại giao, bà Tôn Nữ Thị Ninh đã chia sẻ những bài học kinh nghiệm của bản thân trong phát huy thế mạnh của nhà ngoại giao nữ.
Tại hội thảo chuyên đề về chính sách tiền tệ và lạm phát mục tiêu cuối tuần qua, ông Nguyễn Đức Hưởng, Phó chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank), đưa ra một quan điểm trái chiều.
Tại cuộc họp báo của Văn phòng Quốc hội về kỳ họp thứ 5, các câu hỏi chuyển tới Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc chủ yếu tập trung vào nội dung lấy phiếu tín nhiệm mà Quốc hội dự kiến sẽ dành khoảng 3 ngày thực hiện công việc này.
Ngày 16/5, tại buổi họp báo về 2 dự án Tổ hợp bauxit-alumin (nhôm) Lâm Đồng và dự án alumin Nhân Cơ (Đăk Nông), TS Nguyễn Tiến Chỉnh - Trưởng Ban Khoa học công nghệ và Chiến lược phát triển (thuộc Vinacomin) khẳng định, 2 dự án có hiệu quả về kinh tế. Theo tính toán sẽ nộp ngân sách 400 tỷ đồng/năm.
Xung quanh vấn đề khai thác bể than sông Hồng, ông Trịnh Xuân Bền - Phó Cục trưởng Cục Địa chất và Khoáng sản VN cho rằng hiện nay mới chỉ là bước đầu thăm dò bể than này và chưa có cơ sở để đánh giá trữ lượng cũng như hiệu quả kinh tế.
Xây dựng thương hiệu quốc gia bắt đầu từ thương hiệu doanh nghiệp hay doanh nhân? Ông Đỗ Thắng Hải – Cục trưởng Cục Xúc tiến Thương mại (Bộ Công Thương), Tổng thư ký “Chương trình Thương hiệu Quốc gia” đã cùng Doanh nhân thử tìm câu trả lời.
Tổng mức đầu tư toàn xã hội năm 2009 là 42,2% GDP (kế hoạch là 39,5% GDP), trong khi tốc độ tăng trưởng sụt giảm chỉ còn khoảng 5,2%, chỉ số ICOR (hệ số sinh lời từ đồng vốn đầu tư) tăng lên trên 8 so với mức 6,66% của năm 2008.
Nhiều doanh nghiệp phải hoãn tiến độ, hoặc bị cắt đầu tư vì triển khai tiến độ chậm; việc thu hút đầu tư vào các khu, cụm công nghiệp có nhiều tiến triển nhưng chưa mấy khởi sắc... Đó là bức tranh chung về thu hút đầu tư của tỉnh Hậu Giang trong thời gian qua. Phóng viên Báo Hậu Giang có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Thành Nhơn, Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hậu Giang xung quanh tình hình và giải pháp đẩy mạnh thu hút đầu tư của tỉnh.
Đâu đó vẫn còn tư duy, tập quán kinh tế tiểu nông cản trở, kìm hãm, làm Việt Nam thua thiệt trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới. Tinkinhte.com xin đăng lại bài phỏng vấn nguyên trưởng đoàn đàm phán Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ Nguyễn Đình Lương, xoay quanh vấn đề này.
Sau khi xem loạt bài “Bảo hộ sản xuất ô tô trong nước: Ai được lợi?”, Thứ trưởng Bộ Công thương Lê Dương Quang khẳng định: “Các ý kiến, bài viết trên SGGP về chủ đề này đều rất có ích cho các nhà quản lý, nhà sản xuất và cả người tiêu dùng. Nó giúp chúng ta nhìn vấn đề từ nhiều góc độ, qua đó tìm ra giải pháp đúng đắn để khắc phục yếu kém và phát triển ngành công nghiệp (CN) quan trọng này đúng hướng…”.
Trong những năm qua, Tổ chức Jica Nhật Bản đã thực hiện có hiệu quả nhiều dự án tại tỉnh Cà Mau. Trong đó có nhiều dự án đầu tư không hoàn lại như: dự án trồng và phục hồi rừng sau cháy, nâng cao năng lực cộng đồng cho các xã vùng đệm rừng U Minh hạ. Đặc biệt,
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.