Sau hơn một năm có hiệu lực, Nghị định 69/CP về bồi thường, thu tiền sử dụng đất bị không ít các doanh nghiệp bất động sản cho rằng bất hợp lý, gây thiệt hại cho doanh nghiệp.
Một trong những bức xúc của các doanh nghiệp bất động sản chính là điều khoản “thu tiền sử dụng đất theo giá thị trường” của nghị định. Nhiều doanh nghiệp cho biết, nhiều dự án của họ đang phải “đắp chiếu”, thậm chí phải đối mặt với nguy cơ phá sản chỉ vì điều khoản trên.
Tuy nhiên, theo ông Phạm Đình Cường, Cục trưởng Cục Quản lý công sản (Bộ Tài chính), những bức xúc của doanh nghiệp cũng là điều dễ hiểu, bởi ít nhiều lợi ích của họ cũng bị ảnh hưởng, song điều đó không có nghĩa là Nghị định 69 đã... “làm khó” doanh nghiệp.
Trao đổi với PV về nội dung trên, ông Cường nói:
- Trong thời gian qua, sau khi nhận được những phản ánh của các doanh nghiệp bất động sản, chúng tôi cũng đã phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức một số buổi đối thoại để giải đáp mọi thắc mắc cũng như phân tích cho họ hiểu rõ mục đích và ý nghĩa của Nghị định 69.
Quan điểm của chúng tôi, nếu qua các cuộc đối thoại mà phát hiện ra điều gì đó chưa hợp lý thì có thể xem xét, điều chỉnh cho phù hợp.
Tuy nhiên, việc mà các doanh nghiệp bất động sản, đặc biệt là ở Tp.HCM thắc mắc về tiền sử dụng đất thì tôi có thể khẳng định là vấn đề này đã được giải quyết cơ bản theo đúng Luật Đất đai. Nghĩa là, việc cho thuê đất, giao đất phải theo giá thị trường, điều này thực ra đã được quy định từ Luật Đất đai 2003, chứ không phải từ Nghị định 69.
Hiện Bộ Tài chính cũng đang lấy ý kiến các bộ, ngành về dự thảo hai nghị định sửa đổi Nghị định 142 về thu tiền cho thuê đất và Nghị định 198 về thu tiền sử dụng đất. Chắc chắn sẽ có thêm một số điểm mới về hai vấn đề này.
Không lợi, doanh nghiệp sẽ không làm
Vậy, cơ quan quản lý tiếp thu và giải quyết như thế nào đối với những ý kiến phản hồi của các doanh nghiệp cho rằng họ bị thiệt hại, thậm chí phá sản chỉ vì những điều khoản của Nghị định 69?
Việc các doanh nghiệp kêu phá sản là không có căn cứ, bởi khi nhà nước giao đất hay cho thuê đất là trên cơ sở tự nguyện của các nhà đầu tư. Nếu các doanh nghiệp bất động sản thấy nghĩa vụ quá cao thì cũng không ai bắt buộc họ phải đầu tư dự án đó, cho nên không có lý do gì để nói họ phải phá sản .
Còn chuyện họ phản ánh thu theo giá thị trường là quá cao cũng không có cơ sở. Khi nhà nước tính tiền sử dụng đất để các doanh nghiệp nộp thì chủ yếu là dựa vào phương pháp tính thu nhập, tức là trên cơ sở tính đầu vào - đầu ra để tính được giá đất. Giá đất là một chi phí đầu vào, vì vậy không có cơ sở để nói rằng giá đất vượt quá chi phí đầu ra.
Bên cạnh đó, việc các nhà đầu tư kêu rằng, đền bù đất theo giá thị trường gây khó khăn là vì từ trước tới nay chúng ta chưa áp giá thị trường. Vì vậy, đã có khoảng cách khá cao trong chênh lệch về giá đất, giúp doanh nghiệp có lợi nhuận cao.
Còn hiện nay khi nhà nước áp giá cao vào thì nhà đầu tư cảm thấy lợi nhuận của mình đã bị bé lại. Phản ứng này cũng là dễ hiểu. Nhưng quan điểm của cơ quan quản lý là từ nay trở đi phải minh bạch, nghĩa là nhà đầu tư bất động sản cũng như nhà đầu tư ở bất kỳ lĩnh vực khác chỉ có thể có lợi nhuận thông qua việc quản lý tốt, áp dụng công nghệ tiến tiến... chứ không phải thông qua việc mua đất với giá rẻ.
Nhưng nhiều doanh nghiệp bất động sản vẫn phản đối việc đền bù cho dân phải theo giá thị trường, trong khi họ chỉ được nhà nước trừ theo mức ấn định sẵn?
Thực tế mấy năm trước đây là có chuyện đó, tức là họ phải đền bù cho dân cao hơn định mức thì dân mới chịu di dời, song khi Nghị định 69 ra đời đã giải quyết được việc đó. Hiện nay đã cho khung đền bù lớn hơn và khung này đã được nhà nước chấp nhận. Như vậy rõ ràng là nhà đầu tư sẽ được trừ nhiều hơn so với trước khi có Nghị định 69.
Nhiều doanh nghiệp bất động sản ở Tp.HCM vừa qua có phản ánh, bắt họ đền bù theo giá thị trường tại khu vực đó, song có nhiều khu vực, nhiều địa bàn cả năm không có giao dịch đất đai nên họ không biết đâu là “giá thị trường” để mà đền bù?
Vấn đề này là do nhà đầu tư phải tính toán khi đặt dự án. Giá thị trường thì có nhiều phương pháp xác định, có những nơi thị trường sôi động thì ở đó có một khung giao dịch, còn những nơi không sôi động, thậm chí không giao dịch thì cũng sẽ có những phương pháp để tính toán giá đất theo thực tế. Chúng tôi đã có hướng dẫn tới các doanh nghiệp 4 phương pháp để tính cho những trường hợp này.
Theo tôi, hiện nay do thị trường chưa ổn định nên thông thường các cơ quan quản lý sẽ tính bằng phương pháp thu nhập, nghĩa là làm sao vẫn phải đảm bảo cho doanh nghiệp tính đủ chi phí và có lãi.
Đất rẻ, nhưng nhà có rẻ đâu? Nhưng nếu tính toán theo cách trên thì khi giao đất có nảy sinh tiêu cực và làm cho giá đất giao cho doanh nghiệp thấp hơn giá thị trường?
Nhiệm vụ của chúng tôi là phải làm theo những gì nhà nước đã công bố, đó là phải tính sát theo giá thị trường. Nếu chưa sát giá thị trường thì nhiệm vụ quản lý nhà nước của chúng tôi chưa hoàn thành vì Luật Đất đai 2003 đã nói khi giao đất, cho thuê đất phải sát giá thị trường.
Tuy nhiên vấn đề ở đây là một khi đầu ra của các dự án đã là giá thị trường rồi, nghĩa là hiện nay giá bất động sản bán ra của nhà đầu tư chưa hề có sự kiểm soát của nhà nước, nhưng họ vẫn được tính theo chi phí cộng với lợi nhuận để đưa ra giá thành.
Còn giá đầu vào của nhà nước là chúng tôi tính thị trường sẽ đảm bảo loại trừ các yếu tố đầu cơ, và các nhà đầu tư vẫn bảo đảm được các chi phí và có lãi
Tôi cũng lưu ý, các quy định hiện nay, nếu để thoả mãn tất cả các doanh nghiệp, nhà đầu tư là điều không thể. Tuy nhiên những quy định và nghị định bổ sung sắp tới sẽ đảm bảo được những nguyên lý là các nhà đầu tư bất động sản hay bất kỳ một lĩnh vực nào đều phải hoạt động có lãi, nhưng không được lãi từ việc mua đất rẻ.
Liệu việc áp dụng thu tiền sử dụng đất này có làm cho giá bất động sản trên thị trường sẽ bị đẩy lên cao?
Tôi nghĩ không phải như thế bởi thị trường bất động sản có nhiều biến động và nó phụ thuộc vào cung - cầu chứ không phải phụ thuộc vào việc mua đất hay giao đất với giá rẻ. Trên thực tế là có nhiều doanh nghiệp đã mua được giá đất rẻ nhưng rồi họ có giảm giá bán nhà xuống đâu.
Tuy nhiên trên thị trường luôn có lực lượng đầu cơ, thổi giá vì vậy phải có những biện pháp như bắt buộc giao dịch đưa ra là phải giao dịch trên sàn, công khai minh bạch thông tin các dự án... thì chắc chắn sẽ loại bớt dần yếu tố đầu cơ.
Theo kết quả lấy phiếu tín nhiệm các chức danh, cán bộ chủ chốt do Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội công bố chiều 4/7, ông Nguyễn Đình Đức, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội là người có số phiếu “tín nhiệm cao” ít nhất trong số 18 cán bộ lãnh đạo Hà Nội, với 27 phiếu. Ông Đức cũng là người có số phiếu “tín nhiệm thấp” nhiều nhất với 23 phiếu.
Trong một cuộc trò chuyện với các cán bộ, nhân viên nữ công tác tại Bộ Ngoại giao, bà Tôn Nữ Thị Ninh đã chia sẻ những bài học kinh nghiệm của bản thân trong phát huy thế mạnh của nhà ngoại giao nữ.
Tại hội thảo chuyên đề về chính sách tiền tệ và lạm phát mục tiêu cuối tuần qua, ông Nguyễn Đức Hưởng, Phó chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank), đưa ra một quan điểm trái chiều.
Tại cuộc họp báo của Văn phòng Quốc hội về kỳ họp thứ 5, các câu hỏi chuyển tới Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc chủ yếu tập trung vào nội dung lấy phiếu tín nhiệm mà Quốc hội dự kiến sẽ dành khoảng 3 ngày thực hiện công việc này.
Ngày 16/5, tại buổi họp báo về 2 dự án Tổ hợp bauxit-alumin (nhôm) Lâm Đồng và dự án alumin Nhân Cơ (Đăk Nông), TS Nguyễn Tiến Chỉnh - Trưởng Ban Khoa học công nghệ và Chiến lược phát triển (thuộc Vinacomin) khẳng định, 2 dự án có hiệu quả về kinh tế. Theo tính toán sẽ nộp ngân sách 400 tỷ đồng/năm.
Vừa được gửi đến đại biểu Quốc hội, Báo cáo thẩm tra báo cáo công tác phòng chống tham nhũng năm 2010 của Chính phủ của Ủy ban Tư pháp đã đưa ra nhiều nội dung đáng chú ý.
“Doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt với các cơn gió bão, họ cần phải mạnh lên, phải cơ cấu lại, tìm lại thế mạnh của mình và tạo ra những thế mạnh mới để có thể cạnh tranh được” - chuyên gia kinh tế cao cấp Lê Đăng Doanh khẳng định.
TS Ulrike Maenner, Cố vấn trưởng Chương trình cải cách kinh tế vĩ mô của Dự án GTZ khuyến nghị, Việt Nam nên thành lập Ủy ban Quản lý DNNN thuộc Chính phủ, có chức năng thống nhất quản lý, giám sát hoạt động của các DNNN.
Quốc hội đã tập trung thảo luận ở tổ về Dự thảo Luật Thủ đô. Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường cho biết, với nhiều cơ chế, chính sách đặc thù, trong đó có việc được sử dụng toàn bộ khoản thu ngân sách vượt dự toán hàng năm, Hà Nội có nhiều điều kiện để xây dựng đô thị văn minh, hiện đại.
“Doanh nghiệp khai thác khoáng sản hầu như không đầu tư cho công nghệ, lấy khoáng sản thô dưới lòng đất rồi xuất khẩu ngay. Cách khai thác theo kiểu “ăn xổi ở thì” này đã xâm hại nghiêm trọng tài nguyên quốc gia”
Ngày 26-10, bên hành lang Quốc hội, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Quốc hội Vũ Viết Ngoạn (ảnh) trao đổi với báo chí về những “lỗ hổng” trong quản lý các tập đoàn kinh tế Nhà nước, ông cho rằng:
Trong cuộc trò chuyện với phóng viên, Bộ trưởng Kinh tế Các Tiểu Vương quốc Ả rập thống nhất (UAE) cho rằng, thị trường trong nước với 86 triệu dân là một lợi thế của Việt Nam trong phát triển kinh tế.
Một trong những phương hướng, nhiệm vụ 5 năm tới được Đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ XV đề ra là "từng bước cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần nông dân" và "thu hẹp khoảng cách chênh lệch phát triển giữa các vùng Thủ đô". Nhưng cần điều kiện nào để nông nghiệp, nông thôn Hà Nội làm được điều đó? Ông Trần Xuân Việt, Giám đốc Sở NN&PTNT đã trao đổi với PV Hànộimới về vấn đề này.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.