Theo khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp VN (VCCI), nhu cầu vay vốn của DN trong những tháng cuối năm là rất lớn, đối với DN dân doanh tỉ lệ cần vay là 90,2%, DN quốc doanh là 81,5% và 57,7% đối với DN có vốn đầu tư nước ngoài.
Mặc dù hệ thống ngân hàng thương mại đang bước vào thời kỳ dư thừa vốn khả dụng, nhưng vì lãi suất quá cao, điều kiện vay khắt khe nên nhiều doanh nghiệp (DN) đói vốn lại khó tiếp cận với nguồn vay tín dụng.
Doanh nghiệp có nguy cơ bị lỗ vốn
Đến nay lãi suất cho vay đã giảm 1% - 2% so với 2 tháng trước, nhưng còn ở mức rất cao, từ 19% - 20%/năm. Những DN lớn được ngân hàng cho vay thì lo tiền lời kinh doanh không đủ trả lãi vay, còn DN vừa và nhỏ thì khó tiếp cận nguồn vốn do thiếu tài sản thế chấp và thiếu niềm tin với ngân hàng. Trước đây, khi thị trường chứng khoán sôi động, nhiều DN huy động vốn qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu, nhưng nay kênh huy động này bế tắc nên nguồn vốn mà DN níu vào chủ yếu là tín dụng. Theo khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp VN (VCCI), nhu cầu vay vốn của DN trong những tháng cuối năm là rất lớn, đối với DN dân doanh tỉ lệ cần vay là 90,2%, DN quốc doanh là 81,5% và 57,7% đối với DN có vốn đầu tư nước ngoài.
Do kinh tế trong nước và thế giới suy giảm, việc tiêu thụ hàng hóa trở nên khó khăn, hiệu quả kinh doanh thấp nên tín dụng vừa là đòn bẩy tài chính nhưng cũng có thể là cái bẫy với DN. Nếu vay mà làm ăn bị lỗ thì lại ôm nợ vào thân. Mặc dù DN đã tìm nhiều cách tiết kiệm nhưng vẫn khó bù đắp do chi phí đầu vào tăng cao. Ông Trần Quốc Mạnh, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Phát triển sản xuất thương mại Sadaco, cho biết: Giá thành hàng hóa của DN tăng rất cao so với trước (do lãi vốn vay và giá nguyên vật liệu tăng lên) nhưng giá bán thì tăng thấp, thậm chí có nhiều mặt hàng không tăng nên DN khó làm ăn, thậm chí có nguy cơ bị lỗ vốn.
Không dám mạnh tay hạ lãi suất
Đại đa số DN trong nước có quy mô vừa và nhỏ, đang cần nguồn tín dụng để duy trì sản xuất, kinh doanh. Nếu tiếp tục để lãi suất tín dụng cao thì DN sẽ khó khăn và ngân hàng cũng sẽ bế tắc đầu ra. Trong 6 tháng đầu năm tốc độ tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống ngân hàng bình quân đạt hơn 2,5%/tháng, nhưng tháng 7 chỉ còn tăng 0,7% và tháng 8 tăng 0,79%. Còn tính từ đầu năm đến nay mức tăng tín dụng chỉ đạt khoảng 18% so với cuối 2007, trong khi “hạn mức” là 30%. Vì dư địa còn rộng nên nhiều ngân hàng muốn giảm lãi suất để kích thích cho vay nhưng gặp khó. Ông Lý Xuân Hải, Tổng Giám đốc Ngân hàng ACB, nói: ACB hiện có tổng tài sản 105.000 tỉ đồng, dư nợ cho vay mới đạt 38.000 tỉ đồng, tăng khoảng 18% so với cuối năm ngoái. Như vậy trong năm nay ACB còn “hạn mức” 12% nữa mới đạt chỉ giới hạn chế tăng trưởng tín dụng. Để khuyến khích DN vay vốn hiện ACB đang chủ trương cho giảm dần lãi suất đầu ra để chia sẻ khó khăn với DN. Nhưng muốn hạ mạnh lãi suất cho vay thì cần phải giảm lãi suất huy động. Hiện tại chưa ngân hàng nào dám hạ mạnh lãi suất huy động, mà chỉ giảm từ từ, bởi giảm mạnh lại sợ nguồn vốn chảy sang đơn vị khác.
Kiến nghị lãi suất cho doanh nghiệp
Trước tình hình khó khăn của DN, ngày 23-9, VCCI đã có công văn đề nghị Hiệp hội Ngân hàng VN thống nhất với các thành viên thực hiện việc giảm lãi suất cho vay với các DN. Theo VCCI, việc giảm lãi suất cho vay trong thời điểm này là rất cấp bách, nhằm góp phần thực hiện các nhóm giải pháp của Chính phủ về ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội, tháo gỡ khó khăn cho DN. Mặt khác, việc này cũng nhằm bảo đảm cho hệ thống ngân hàng thương mại phát triển bền vững, vì DN chính là động lực của sự phát triển kinh tế và lợi nhuận cho các ngân hàng.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Xu hướng lạm phát thông qua diễn biến của chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đang giảm mạnh đã mang lại những tín hiệu lạc quan trong điều hành kinh tế. Tuy nhiên, ngay từ bây giờ những lo ngại về đình trệ kinh tế sau lạm phát đã dần hiện rõ. Các chuyên gia cảnh báo, một thời kỳ khó khăn kéo dài sau giai đoạn lạm phát tăng cao là một quy luật khó tránh khỏi.
Chi phí logistics của Việt Nam cao so với nhiều nước, trở thành gánh nặng cho các doanh nghiệp và giao thương hàng hóa. Nguyên nhân đầu tiên là vì hệ thống cảng biển còn thiếu, nhất là cảng có năng lực trung chuyển container quốc tế.
Nhiều chuyên gia kinh tế thuộc các thể chế tài chính - kinh tế uy tín của thế giới có nhận định chung là tình hình kinh tế Việt Nam đã bắt đầu ổn định và đang có những chuyển biến tích cực so với thời điểm giữa năm nay.
Phát biểu trong “Diễn đàn kinh tế 2008” diễn ra tại Hà Nội ngày 2/10, chuyên gia kinh tế Võ Trí Thành nhận định kinh tế vĩ mô đã có dấu hiệu tích cực nhưng mức độ bất ổn vĩ mô vẫn còn rất cao vào những tháng cuối năm.
Bộ Công Thương cho biết trong tháng 10, chỉ số giá hàng hoá và dịch vụ (CPI) sẽ tiếp tục duy trì mức tăng thấp, chỉ khoảng 0,2% so với tháng 9, sau khi chỉ tăng 0,18% trong tháng 9.
Tại cuộc họp ngày 26/9/2008, Tổ Điều hành thị trường trong nước thuộc Bộ Tài chính nhận định chỉ số giá tiêu dùng năm 2008 sẽ đạt mục tiêu khống chế dưới mức 25% và dự báo thị trường hàng hóa quý 4 mặc dù vào chu kỳ tăng giá cuối năm nhưng mức tăng sẽ không đột biến.
Ngày 26/9/2008, tại hội nghị giao ban sản xuất tháng 9, tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Cao Viết Sinh nhận định tốc độ tăng trưởng GDP trong quý III đạt 6,55%, tuy vẫn thấp hơn nhiều so với quý I (9,38%) nhưng đã cao hơn so với quý II (5,38%).
Việc chỉ số giá tiêu dùng tháng 9 chỉ tăng 0,18% so với tháng trước, thấp nhất từ đầu năm đến nay, được xem là tín hiệu khả quan cho diễn biến giá tiêu dùng và tình hình kinh tế vĩ mô từ nay đến cuối năm.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.