Đại biểu Quốc hội Cao Sĩ Kiêm. (Nguồn: baodongkhoi.com.vn).
Trong cuộc trao đổi với phóng viên Vietnam+ bên lề kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XII đang diễn ra tại Hà Nội, ông Cao Sĩ Kiêm, nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Chủ tịch hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa, ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, nhấn mạnh khi đất nước cân đối ngân sách giỏi, ổn định, bền vững thì vốn tích lũy sẽ tăng lên.
"Nếu chúng ta đi vay vốn mà không sử dụng hiệu quả thì dẫn tới việc chứa đựng nhiều rủi ro khi phải nợ quá hạn. Cho dù hiện tại ta đang ở trong mức an toàn cho phép nhưng trong tương lai khi tiến hành trả nợ thì kinh tế lại không an toàn nữa," ông Kiêm nói.
- Chính sách tín dụng, chính sách tiền tệ hiện đang điều chỉnh không xác thực, khiến cho giá USD hay là giá vàng liên tục lên xuống thất thường, ông nghĩ sao?
Ông Cao Sĩ Kiêm: Tiến hành điều chỉnh về mặt định hướng, chủ trương thì hoàn toàn đúng, theo đúng nguyên tắc cung, cầu thị trường. Nhưng theo tôi, việc cụ thể hóa chủ trương bằng những chính sách và cách điều hành lại chưa khớp. Sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa đôi khi chưa mạch lạc và chưa đồng bộ.
Kiểm soát lạm phát của chúng ta hiện đang ở mức dưới hai con số. Còn tăng trưởng kinh tế thì đến thời gian này có thể khẳng định rằng sẽ đạt được mục tiêu đề ra là 6,7% năm 2010.
- Ông có cảnh báo nào về tăng trưởng kinh tế 2 tháng cuối năm?
Ông Cao Sĩ Kiêm: Như chúng ta đã xác định được 6 khuyết điểm của Chính phủ thuộc về vĩ mô, dài hạn như sức cạnh tranh, hiệu quả nền kinh tế, hệ số ICOR, quản lý môi trường, khoáng sản, đất đai, vấn đề thể chế kinh tế, chất lượng nguồn lực, vấn đề về hệ thống cơ sở hạ tầng.
Những vấn đề tồn tại này, theo tôi, ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ và chất lượng tăng trưởng. Nếu không được khắc phục thì nó sẽ làm chậm lại chỉ tiêu phát triển kinh tế và làm cho chúng ta rơi vào cái bẫy thu nhập trung bình.
Vì những vấn đề vĩ mô còn chưa được giải quyết triệt để, bên cạnh đó lại còn nhập siêu, bội chi ngân sách và những nút thắt của nền kinh tế như điện, nước, than, ách tắc giao thông..., tất cả đang nghẽn lại. Hậu quả là những năm tới sẽ xảy ra bất trắc, tiềm ẩn rủi ro sẽ lớn lên. Và khả năng xảy ra những vấn đề không an toàn cho nền kinh tế là có.
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn, lãi suất có thể lên tới 16, 17%. Trong khi đó Chính phủ vẫn tiếp tục phát hành trái phiếu thì rất khó cho việc giảm lãi suất xuống?
Ông Cao Sĩ Kiêm: Đây là một điểm yếu mà tôi vừa phân tích, đó là sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Ví dụ như chúng ta đang muốn kéo lãi suất xuống để cứu sản xuất, cứu doanh nghiệp nhỏ và vừa thì lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi phải thấp xuống.
Nhưng hiện nay trái phiếu Kho bạc Nhà nước khi huy động vào và trái phiếu Chính phủ vẫn đang giữ ở mức từ 11- 13% thì chắc chắn số vốn sẽ phải dồn về một phía, không vào sản xuất kinh doanh mà lại đi chỗ khác. Vốn của ngân hàng tụt đi thì làm sao đáp ứng vốn cho nền kinh tế.
Trái phiếu nếu không sử dụng thì lại đem gửi vào kho bạc, và thậm chí khi bán đi thì một số cá nhân có vốn lại mua. Mua nhưng vẫn không đầu tư vào sản xuất kinh doanh mà lại mang vào thị trường liên ngân hàng... Thế là số vốn này cứ chạy lòng vòng, giữa mấy "ông" ngân hàng với nhau trong khi vốn dùng để đưa vào sản xuất kinh doanh, phục vụ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa thì lại không có. Khả năng sử dụng đương nhiên là kém hiệu quả.
Điều quan trọng lúc này là Chính phủ phải điều hành làm sao giảm bội chi ngân sách, giảm nhập siêu càng nhanh càng tốt, càng nhiều càng hay. Thứ nữa là phải tập trung giải quyết kinh tế tư nhân, vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tháo gỡ cho họ về vốn, về mặt bằng sản xuất, thể chế và phải giảm được chi tiêu công, sắp xếp lại doanh nghiệp quốc doanh. Phải quản lý kinh tế, quản lý con người một cách chặt chẽ, gắn nghị quyết với hành động, gắn quyền lợi kinh tế với quyền lợi xã hội. Phải gắn liền giữa nói và làm.
- Trên diễn đàn Quốc hội, có nhiều ý kiến cho rằng các công ty phải công khai tài chính, minh bạch tài chính như các công ty đang niêm yết trên thị trường chứng khoán, ý kiến của ông như thế nào?
Ông Cao Sĩ Kiêm: Đây là một vấn đề cần thiết, có lợi cho cả doanh nghiệp và cho cả xã hội. Doanh nghiệp muốn có thương hiệu, muốn tồn tại được thì phải có được sự tín nhiệm, có được lòng tin của khách hàng, của đối tác.
Doanh nghiệp nào còn tồn tại thì phải tập trung sửa chữa, nếu che giấu thì nó như cái nhọt bọc, đến một lúc nào đó nó bung ra thì vô phương cứu chữa.
Tôi cho rằng Luật về kinh doanh vốn nhà nước là cần thiết, nhưng để xây dựng được nó thì cũng cần phải có thời gian., trước mắt, các doanh nghiệp phải công khai, minh bạch hóa vấn đề tài chính.
Đối với vấn đề Vinashin, sau khi phát hiện ra và trước thực trạng đáng buồn này thì phải quy trách nhiệm và xử lý. Việc này dứt khoát phải làm. Nếu cứ để tiếp tục thế này thì không ổn. Phải phân rõ trách nhiệm ra từng cấp, cấp tập đoàn quản lý đến đâu, cấp lãnh đạo đến đâu...
Nếu ta nhận khuyết điểm cho người khác thì cũng không được. Và nếu ta xuê xoa, cho qua nó đi thì cũng không được, càng làm cho doanh nghiệp khó khăn và giảm sút lòng tin của nhân dân.
Khi đi vào mổ xẻ vấn đề này thì phải theo trình tự pháp luật, phải có thực tế, phải có chứng lý, nguyên nhân rõ ràng. Không thể giải thích một chiều. Về việc có ý kiến đề nghị Quốc hội thành lập một ủy ban lâm thời giải quyết việc này, theo tôi, nếu Chính phủ chưa thể giải quyết một cách rõ ràng thì phải có một ủy ban ở cấp cao hơn là Quốc hội vào cuộc.
Theo kết quả lấy phiếu tín nhiệm các chức danh, cán bộ chủ chốt do Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội công bố chiều 4/7, ông Nguyễn Đình Đức, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội là người có số phiếu “tín nhiệm cao” ít nhất trong số 18 cán bộ lãnh đạo Hà Nội, với 27 phiếu. Ông Đức cũng là người có số phiếu “tín nhiệm thấp” nhiều nhất với 23 phiếu.
Trong một cuộc trò chuyện với các cán bộ, nhân viên nữ công tác tại Bộ Ngoại giao, bà Tôn Nữ Thị Ninh đã chia sẻ những bài học kinh nghiệm của bản thân trong phát huy thế mạnh của nhà ngoại giao nữ.
Tại hội thảo chuyên đề về chính sách tiền tệ và lạm phát mục tiêu cuối tuần qua, ông Nguyễn Đức Hưởng, Phó chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank), đưa ra một quan điểm trái chiều.
Tại cuộc họp báo của Văn phòng Quốc hội về kỳ họp thứ 5, các câu hỏi chuyển tới Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc chủ yếu tập trung vào nội dung lấy phiếu tín nhiệm mà Quốc hội dự kiến sẽ dành khoảng 3 ngày thực hiện công việc này.
Ngày 16/5, tại buổi họp báo về 2 dự án Tổ hợp bauxit-alumin (nhôm) Lâm Đồng và dự án alumin Nhân Cơ (Đăk Nông), TS Nguyễn Tiến Chỉnh - Trưởng Ban Khoa học công nghệ và Chiến lược phát triển (thuộc Vinacomin) khẳng định, 2 dự án có hiệu quả về kinh tế. Theo tính toán sẽ nộp ngân sách 400 tỷ đồng/năm.
Trao đổi với Tiền Phong chiều 8 - 11, ông Nguyễn Huy Tưởng, Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội cho rằng, thành phố đã nâng từ 109 điểm bán hàng bình ổn giá năm 2009 lên 385 điểm năm nay.
Sau hơn một năm có hiệu lực, Nghị định 69/CP về bồi thường, thu tiền sử dụng đất bị không ít các doanh nghiệp bất động sản cho rằng bất hợp lý, gây thiệt hại cho doanh nghiệp.
Vừa được gửi đến đại biểu Quốc hội, Báo cáo thẩm tra báo cáo công tác phòng chống tham nhũng năm 2010 của Chính phủ của Ủy ban Tư pháp đã đưa ra nhiều nội dung đáng chú ý.
“Doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt với các cơn gió bão, họ cần phải mạnh lên, phải cơ cấu lại, tìm lại thế mạnh của mình và tạo ra những thế mạnh mới để có thể cạnh tranh được” - chuyên gia kinh tế cao cấp Lê Đăng Doanh khẳng định.
TS Ulrike Maenner, Cố vấn trưởng Chương trình cải cách kinh tế vĩ mô của Dự án GTZ khuyến nghị, Việt Nam nên thành lập Ủy ban Quản lý DNNN thuộc Chính phủ, có chức năng thống nhất quản lý, giám sát hoạt động của các DNNN.
Quốc hội đã tập trung thảo luận ở tổ về Dự thảo Luật Thủ đô. Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường cho biết, với nhiều cơ chế, chính sách đặc thù, trong đó có việc được sử dụng toàn bộ khoản thu ngân sách vượt dự toán hàng năm, Hà Nội có nhiều điều kiện để xây dựng đô thị văn minh, hiện đại.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.