Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Việt Nam phải là một không gian kinh tế thống nhất

Ông Vũ Khoan - tinkinhte.com
Ông Vũ Khoan
Câu chuyện có phần chua xót về cái thời mà cái gì cũng là của chung được chúng tôi mang ra trao đổi với nguyên Phó thủ tướng Chính phủ Vũ Khoan. Câu chuyện ấy như thế này: “Khi tiếng kẻng hết giờ làm việc vang lên thì người nông dân đang giơ cuốc lên định bổ xuống đất liền hạ cuốc xuống vai để đi về chứ không bổ thêm nhát nữa”.
 
Ông cười nhưng thừa nhận chuyện đó, tuy có vẻ ngoa ngắt, nhưng đã phản ánh khá đúng một thời cách đây hơn 25 năm, khi mà tất tật mọi tư liệu sản xuất, từ ruộng đất, vườn tược, trâu bò đến cái cày, cái bừa, cái liềm... đều là của chung, của hợp tác xã. Chính vì vậy, nên nhiều xã viên làm lụng qua quýt, cày thì đường cày đường bỏ; bừa thì lượt có lượt không. Kết quả là tình trạng đất nước luôn thiếu ăn triền miên, năm nào cũng phải “đi xin” viện trợ.

Trong bối cảnh đó, “khoán 10” ra đời như một liều thần dược, làm cho nền nông nghiệp nước nhà hồi sinh; đất nước từ chỗ thiếu ăn vươn lên thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Nguyên Phó thủ tướng Vũ Khoan đánh giá: “Có thể nói rằng, khoán 10 đã trở thành một biểu tượng về công cuộc đổi mới ở nước ta”.

Thưa ông, cái được lớn nhất của “khoán 10” là gì?

Cái được thì bạn vừa nói: từ nước thiếu đói trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới! Vậy vì sao có câu chuyện thần kỳ ấy? Ngày nay, nhìn lại thì thấy khá đơn giản nhưng thời đó vật vã, chật vật lắm mới làm được.

Thứ nhất là “khoán 10” đã gắn người nông dân với tư liệu sản xuất, để cho họ làm chủ thực sự ruộng đồng, vườn tược, cày cuốc, có quyền chủ động làm ăn, phát huy tiềm năng, sáng kiến của mình.

Thứ hai là “khoán 10” thực sự đã đưa nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu sang kinh tế thị trường, phản ánh đúng giá trị của hàng hóa, khắc phục được tình trạng “mua như cướp, bán như cho”.

Thứ ba là tình trạng phân phối cào bằng được thay bằng nguyên tắc phân phối theo đóng góp công sức của từng người lao động.

Thực chất thì công cuộc đổi mới về kinh tế ở nước ta về đại thể cũng bao hàm những nội dung ấy mà thôi. Chính vì vậy, “khoán 10” đã trở thành biểu tượng của sự đổi mới.

Nhìn lại 25 năm thực hiện “khoán 10”, ông có liên hệ thế nào đến mục tiêu xây dựng đất nước ta trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020?

Nói về mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại thì đến nay cũng còn nhiều ý kiến, nhiều cách hiểu khác nhau về câu chuyện thế nào là “cơ bản thành một nước công nghiệp”, thế nào là “theo hướng hiện đại”. Thật tình cá nhân tôi cũng chưa bắt gặp một định nghĩa nào thật hoàn chỉnh cả. Một mình tôi cũng không thể đề xuất được, nhưng tôi cho rằng, đây là một câu chuyện phải bàn rất rõ, rất kỹ, dưới nhiều  khía cạnh; nếu không, hậu quả sẽ lâu dài.

Vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong hoàn cảnh cụ thể của nước ta vào những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI là như thế nào đây? Theo mô hình nào, bằng cách gì? Chí ít thì cũng phải suy ngẫm về các khía cạnh.

Thứ nhất, chắc chắn công nghiệp hóa bây giờ không thể giống công nghiệp hóa của thế kỷ thứ XIX, khi các nước ở châu Âu tiến hành công nghiệp hóa; và chắc cũng không giống các nước châu Á công nghiệp hóa những năm 60 - 70 của thế kỷ trước để trở thành những “con rồng”, “con hổ”, vì bây giờ hoàn cảnh đã khác, vả lại hoàn cảnh mỗi nước đều khác nhau. Ví dụ, cơ cấu kinh tế thế giới đã chuyển dịch rất khác mấy chục năm trước, sau cuộc khủng hoảng hiện nay, cơ cấu ấy lại càng chuyển dịch mạnh mẽ hơn nữa. Vậy chúng ta sẽ tiến hành công nghiệp hóa thế nào? Vẫn dựa vào tài nguyên, đổ nhiều vốn, dùng công nghệ lạc hậu, lao động chân tay là chính hay thế nào là câu chuyện phải tính kỹ lắm. Một số người “lãng mạn” muốn tiếp cận ngay kinh tế tri thức, liệu chúng ta có làm nổi không một khi chất lượng nguồn nhân lực và nền khoa học - công nghệ còn bất cập như thế này?

Thứ hai, thực ra chúng ta cũng đã bắt đầu tiến hành công nghiệp hóa đất nước từ năm 1961 rồi, trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ III đã đề cập đến câu chuyện này, chứ không phải chờ đến hôm nay mới bắt đầu. Vậy nhìn lại từ năm 1961 đến nay, xem chúng ta đã làm được những gì, cái gì tốt, cái gì chưa tốt, cái gì sẽ phải chỉnh sửa, thậm chí cái gì là sai phải làm lại... cũng phải chỉ rõ để tiếp tục những gì là tốt, đổi mới những điều sai sót.

Thứ ba, trong bối cảnh thế giới toàn cầu hóa, đã hội nhập thì phải công nghiệp hóa thế nào, khác với khi nước ta bị bao vây, cô lập ra sao, ta có thể len chân vào sự phân công lao động quốc tế ra làm sao... Biết bao điều cần suy tính cho kỹ, sát hợp với thực tế của thời đại và đặc điểm của nước ta.

Nhưng thưa ông, chúng ta cũng chỉ đặt ra mục tiêu khiêm tốn là “cơ bản thành một nước công nghiệp”?

Nếu nói về cơ bản thành một nước công nghiệp mà căn cứ theo tỷ lệ GDP, thì nước ta công nghiệp hóa lâu rồi, vì ngay bây giờ, tỷ trọng công nghiệp trong GDP đã đạt trên 40% và dịch vụ là 39,1%. Vấn đề là nội hàm của nền công nghiệp nước ta vẫn còn rất nhiều điều không phù hợp với thời đại, rất nhiều điều bất cập. Cơ cấu công nghiệp thì vẫn nặng về khai thác tài nguyên, gia công; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo còn thấp. Đó là chưa kể hàm lượng chất xám trong mỗi sản phẩm rất là nhỏ, giá trị gia tăng không đáng là bao.

Tôi cho rằng, vấn đề cơ bản trong công nghiệp hóa của Việt Nam là cần chỉnh sửa lại cơ cấu kinh tế cho đúng, có hiệu quả cao nhất, đem lại giá trị gia tăng nhiều nhất. Hơn nữa, trên thế giới ngày nay, công nghiệp bao giờ cũng đi kèm với dịch vụ, hai lĩnh vực này hòa quyện với nhau, nhưng thời gian qua, dịch vụ hầu như dẫm chân tại chỗ.

Một chuyện nữa là nước ta từ nông nghiệp đi lên, và nước nào tiến hành công nghiệp hóa cũng thế cả, vậy phải xử lý vấn đề công nghiệp hóa nông nghiệp thế nào? Chúng ta không thể giữ mãi nông nghiệp nhưng cũng không thể mất đi nông nghiệp. Qua đợt khủng hoảng vừa qua mới thấy nông nghiệp đã đỡ cho suy giảm kinh tế rất nhiều. Vì vậy, nếu chúng ta tiến hành công nghiệp hóa mà triệt tiêu nông nghiệp là không được, nhưng cứ để nông nghiệp như hiện nay cũng không ổn. AustraliaNew Zealand... đã công nghiệp hoá nông nghiệp khá thành công, vậy nước ta nên thế nào?

Một mục tiêu song hành với công nghiệp hóa là hiện đại hóa đất nước. Vậy chúng ta sẽ phải tiến hành hiện đại hóa theo hướng nào, thưa ông?

Hiện đại hóa là một khái niệm rất rộng và rất động, hôm nay là hiện đại, mai đã lạc hậu rồi. Hiện đại hóa không chỉ có nghĩa là hiện đại hóa về sản xuất, trong đó nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ đều phải hiện đại hóa, mà phải hiện đại hóa cả về chất lượng cuộc sống, phương cách làm ăn, hiện đại hóa nền giáo dục, y tế, thậm chí phải hiện đại hóa cả cơ chế vận hành của hệ thống chính trị nữa.

Còn một vấn đề nữa là hiện đại hoá theo mô hình nào? Hiện nay, khi nói đến hiện đại hoá thì người ta vẫn hay bắt chước mô hình của các nước công nghiệp phát triển Âu - Mỹ. Về sản xuất là mô hình công nghiệp đi đôi với dịch vụ đem lại giá trị gia tăng cao, đô thị thì nhà chọc trời, đường sá thì cao tốc... Vậy cái gì là bản sắc của riêng ta? Tôi cho rằng, chúng ta không cần phải cố níu kéo những thứ hủ lậu, nhưng cứ như Nhật Bản là một nước phát triển rất hiện đại nhưng những nét đặc trưng truyền thống họ vẫn giữ được, từ kiến trúc cho đến phong tục.... Vì vậy, giữa hiện đại và truyền thống phải kết hợp thế nào cũng là một câu chuyện lớn lắm và phải tính cho đầy đủ.

Hiện nay, từ xã, phường lên đến trung ương ai cũng nói công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, nhưng nó tròn, vuông, méo như thế nào thì mỗi người hiểu một cách, và đã hiểu khác nhau thì cách làm tất yếu cũng sẽ khác nhau.

Phải chăng đó là nguyên nhân dẫn đến tình trạng các địa phương đua nhau làm “công nghiệp hóa” mà không cần tính đến hiệu quả ra sao?

Đúng vậy! Hiện nay có tình trạng tỉnh nào cũng tiến hành công nghiệp hóa, cố phát triển cho được nhà máy xi măng, nhà máy đường, chế biến bột sắn, thuỷ điện... Ai cũng muốn có cảng nước sâu, có sân bay.

Quan điểm của tôi là nước Việt Nam công nghiệp hóa chứ không phải tỉnh nào cũng công nghiệp hóa, hai chuyện đó tuy có mối quan hệ với nhau nhưng lại khác nhau. Ngay như những nước công nghiệp hiện đại nhất cũng không phải địa phương nào cũng công nghiệp hóa cả đâu. Ví dụ Thụy Sỹ là nước có thu nhập hàng đầu thế giới nhưng không phải chỗ nào cũng công nghiệp, mà tuỳ theo điều kiện từng vùng miền mà họ chọn lĩnh vực phát triển...

Vấn đề là xác định cho trúng tiềm năng có thật của từng địa phương, tập trung khai thác thế mạnh đó chứ không nên chạy theo phong trào. Ví dụ, một tỉnh rõ ràng có tiềm năng du lịch dồi dào, nhưng phá tan những dãy núi đá tạo nên phong cảnh sơn thuỷ hữu tình để công nghiệp hoá bằng công nghiệp xi măng, gây ô nhiềm môi trường nặng nề, triệt tiêu ngành du lịch đi thì có nên không? Chúng ta phải làm rõ khái niệm cả nước Việt Nam là một không gian kinh tế thống nhất, chứ không phải là 63 không gian kinh tế của 63 địa phương.

Vậy theo ông, cần phải làm gì để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất?

Nỗi trăn trở nhất hiện nay của tôi là chưa làm rõ và thống nhất được quan niệm thế nào là công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, do đó không khéo chúng ta sẽ biến đất nước thành một quốc gia công nghiệp hoá, hiện đại hoá có bộ mặt “rất lổn nhổn”. Có lẽ chúng ta cần thay đổi ngay từ tư duy triết lý về công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam trong thời đại mới, làm rõ mô hình mong muốn đạt tới nó là cái gì và bằng con đường nào, bằng cách nào.

Tôi hy vọng rằng, tại Đại hội Đảng lần thứ XI sắp tới, những vấn đề trên sẽ được làm sáng tỏ. Phải huy động trí tuệ của toàn Đảng, của tất cả mọi người Việt Nam để có được cách hiểu thống nhất, mà phải rõ nét chứ không nên chung chung, kèm theo đó là những biện pháp cụ thể, cơ chế chính sách rõ ràng, nhất quán thì mới mong có được công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Và chính lúc này đây, đất nước ta lại rất cần có những “khoán 10” để đưa đất nước lên một tầm cao mới.

(Theo Đức Minh // Báo đầu tư)

  • Tín nhiệm thấp do “kinh tế khó khăn”
  • Nhà ngoại giao Tôn Nữ Thị Ninh và những kinh nghiệm đối ngoại
  • Nâng chỉ tiêu lạm phát để… cứu doanh nghiệp?
  • “Kết quả lấy phiếu tín nhiệm sẽ công khai”
  • Hai dự án bauxit-alumin: Nộp ngân sách 400 tỷ đồng/năm?
  • Bước đi cho Hổ Việt Nam
  • Thuế môi trường cho xăng dầu: Vẫn thấp hơn nhiều nước
  • Về quy hoạch thủ đô Hà Nội: Chúng tôi làm đúng luật (Phần 2)
  • Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng: Gây hại sức khỏe sẽ bị xử lý hình sự
  • Hợp tác thay vì áp thuế chống bán phá giá
  • Đề án an sinh xã hội giai đoạn 2011 - 2020: Cơ hội mới cho lao động nghèo
  • Tiếp cận nguồn vốn ODA: Bước chuyển về tư duy
  • Chuyên gia năng lượng nguyên tử Việt Nam sẽ sang Nga đào tạo từ 9/2010
 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com

  • Giáo sư Trần Văn Thọ: Một tiếp cận khác về chiến lược phát triển 2011-2020
  • Tái cấu trúc nền kinh tế: Đơn đã kê, bệnh nhân có chịu uống thuốc?
  • Thế giới nhìn nhận, đánh giá về triển vọng môi trường kinh doanh của Việt Nam
  • Quan điểm chiến lược phát triển vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam đến 2020
  • Phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2015: Tập trung huy động vốn, chuyển đổi cơ cấu kinh tế
  • Quy hoạch chung Thủ đô: 90 tỷ USD cho hạ tầng có khả thi?
  • Phát triển kinh tế biển đảo Việt Nam: Thực trạng và triển vọng
  • Ts.Trần Công Hòa: Kinh tế Việt Nam 2010 - Một số khuyến nghị
  • Nóng hầm hập: Nhập siêu - Bội chi ngân sách - Chính sách tiền tệ
  • Bàn về cải cách cơ cấu và tái cấu trúc nền kinh tế
  • Việt Nam 2009: Các chỉ số kinh tế và bốn hạn chế từ góc nhìn thống kê
  • Kinh tế Việt Nam 2009 và một vài suy nghĩ về nhận thức luận chuyển đổi