"Cần phải điều chỉnh cắt giảm triển vọng tăng trưởng kinh tế dài hạn của Việt Nam. Thay vì lặp lại con đường phát triển nhanh của Trung Quốc, kinh tế Việt Nam có thể chỉ đạt được những thành công khiêm tốn hơn nhiều, tương tự với các nước láng giềng như Indonesia và Thái Lan." - Trích báo cáo của VNR Reseach Division.
Có một quan điểm được tán thành rộng khắp là bất chấp những khó khăn trong ngắn hạn, triển vọng trung hạn và dài hạn của kinh tế Việt Nam là rất sáng sủa. Việt Nam có tiềm năng trở thành một con rồng mới ở châu Á. Tuy nhiên, đang xuất hiện những ý kiến về một kịch bản trái ngược, đó là kinh tế Việt Nam tuy lạc quan trong ngắn hạn, nhưng khá bi quan trong trung hạn và dài hạn.
Kinh tế vĩ mô quý 3 năm 2008: đáy khó khăn đã được vượt qua
Phù hợp với kịch bản dự báo được đưa ra tại VNR Quarterly No.1, bối cảnh kinh tế vĩ mô trong quý 3 năm 2008 có nhiều dấu hiệu lạc quan. Nguy cơ khủng hoảng tiền tệ và/hoặc khủng hoảng cán cân thanh toán đã lùi xa, nhưng môi trường kinh tế tiếp tục trở nên rất khó khăn đối với khu vực doanh nghiệp.
Lạm phát đang trên đà giảm và có diễn biến tích cực. Nhiều khả mức tăng CPI so với cùng kỳ năm ngoái (CPI yoy) đã đến đỉnh trong tháng 8 (28,4%), dự kiến sẽ giảm dần đến cuối năm và đạt mức 25%-26%.
Thâm hụt thương mại đã giảm nhẹ đáng kể từ mức 3,2-3,3 tỷ USD tháng 3 và tháng 4 xuống còn khoảng 700-800 triệu USD trong tháng 7 và tháng 8. Tỷ giá đang khá ổn định và nhiều khả năng sẽ không có biến động lớn tới hết năm 2008.
Dự trữ ngoại hối dồi dào do cán cân thanh toán tiếp tục thặng dư vì những luồng vào ngoại tệ vẫn tiếp tục lớn hơn luồng ra. Nợ nước ngoài trong tầm kiểm soát (khoảng 30% GDP).
Nền kinh tế đang hạ cánh khá an toàn (soft landing) nhờ vào các chính sách thắt chặt tiền tệ và tài khóa thực hiện cương quyết và đồng bộ của Chính phủ trong quý 1 và quý 2 năm 2008. Một thành công rất đáng ghi nhận nữa của điều hành kinh tế vĩ mô là việc xì hơi hai quả bong bóng bất động sản và tài chính với những hệ quả tiêu cực không quá lớn đến nền kinh tế thực.
Bên cạnh những điểm thuận lợi nêu trên, trong ngắn hạn, môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp vẫn sẽ rất khó khăn, thể hiện ở những điểm sau đây:
- Khu vực ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong quý 4 năm 2008, khi thị trường tài chính tòan cầu tiếp tục chao đảo, tỷ lệ nợ xấu có nguồn gốc bất động sản tiếp tục gia tăng và chi phí huy động vốn vẫn ở mức rất cao. Dự báo lợi nhuận của nhiều ngân hàng sẽ giảm mạnh trong quý 4.
- Lãi suất cho vay sẽ tiếp tục duy trì ở mức rất cao, xấp xỉ 20%/năm. Xét tới những khó khăn về huy động vốn và hiệu quả hoạt động, rất ít khả năng lãi suất cho vay sẽ được cắt giảm mạnh trong quý 4 năm 2008, trừ trường hợp Ngân hàng nhà nước bơm thêm một lượng tiền đáng kể hỗ trợ vốn và thanh khoản cho các ngân hàng thương mại.
- Sức mua tiếp tục bị cắt giảm. Các chính sách thắt chặt tiền tệ từ đầu năm của Ngân hàng nhà nước đã phát huy tác dụng mạnh mẽ trong việc kiềm chế lạm phát. Lượng tiền lưu thông được rút bớt và sức cầu của nền kinh tế đang giảm mạnh. Mức bán lẻ của nền kinh tế đã sụt giảm mạnh trong quý 3.
Thị trường bất động sản vẫn tiếp tục ảm đảm và ít có khả năng phục hồi trong năm 2008.
Tóm lại, các chính sách vĩ mô của Chính phủ đã đi đúng hướng và nhất quán trong 6 tháng gần đây. Kinh tế vĩ mô đang dần dần được ổn định hóa. Tuy nhiên, những chính sách phù hợp khi nền kinh tế chạm đáy rồi đi lên (hạ thấp dự trữ bắt buộc và lãi suất cơ bản) cần được ban hành rất kịp thời, không sớm không muộn, để đảm bảo lạm phát không bùng phát trở lại, đồng thời các doanh nghiệp không bị kìm nén quá mức cần thiết. Cũng cần phải chú ý hơn tới các chính sách an sinh xã hội trợ giúp người nghèo vượt suy thoái kinh tế.
Không khủng hoảng, nhưng liệu có tăng trưởng cao và bền vững?
Trong báo cáo quý trước, chúng tôi đã nhấn mạnh rằng không cần phải quá lo ngại về các bất ổn kinh tế vĩ mô của Việt Nam. Đó chỉ là những vấn đề ngắn hạn và trong tầm kiểm soát. Không có nguy cơ khủng hoảng kinh tế trong 6 tháng cuối năm.
Điều đáng lo ngại hơn là những yếu kém về cơ cấu, thể chế và thậm chí là mô hình phát triển của nền kinh tế Việt Nam đã được bộc lộ rõ hơn qua đợt bất ổn kinh tế này. Đối với một nền kinh tế mới nổi như Việt Nam, câu hỏi quan trọng nhất vẫn là câu hỏi về khả năng tăng trưởng kinh tế cao và bền vững trong tương lai.
Trong báo cáo mới đây nhất, Credit Suisse đã đưa ra nhận xét đầy bi quan rằng cần phải điều chỉnh cắt giảm triển vọng tăng trưởng kinh tế dài hạn của Việt Nam. Thay vì lặp lại con đường phát triển nhanh của Trung Quốc, kinh tế Việt Nam có thể chỉ đạt được những thành công khiêm tốn hơn nhiều, tương tự với các nước láng giềng như Inđonêsia và Thái Lan.
Đưa ra nhận định sớm hơn đôi chút, trong báo cáo “Vietnam: Country Forecast”, September 2007, p.36, tổ chức Economist Intelligence Unit (EIU) đã cho rằng tốc độ tăng trưởng của Việt Nam sẽ suy giảm mạnh kể từ 2010 trở đi.
Quả thực, tuy có nhiều điểm tương đồng, nhưng con đường phát triển của Việt Nam và Trung Quốc khác nhau ở một điểm then chốt. Trung Quốc đã phát triển kinh tế dựa trên việc phát triển năng lực sản xuất của các doanh nghiệp nội địa, đặc biệt là các doanh nghiệp hương trấn. Do vậy, hàng hóa sản xuất tại Trung Quốc và có thương hiệu của Trung Quốc đang ngày càng xuất hiện rộng khắp trên thế giới, là nền móng để Trung Quốc đã tăng trưởng cao (xấp xỉ 10%/năm) và liên tục trong thời gian dài.
Trong khi đó, khu vực sản xuất nội địa của Việt Nam kém tiến bộ. Quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam chủ yếu dựa vào các doanh nghiệp FDI và việc gia công hàng hóa cho các doanh nghiệp FDI. Sản phẩm thương hiệu Việt Nam vừa ít ỏi, vừa yếu kém. Các doanh nghiệp sản xuất Việt Nam vẫn chưa hội nhập được vào mạng lưới sản xuất (value chain) của các doanh nghiệp đa quốc gia Đông Á. Vậy kinh tế Việt Nam sẽ dựa vào động lực nào để tiếp tục tăng trưởng nhanh trong thời gian sắp tới?
Một số nguyên nhân hạn chế thành công kinh tế trung hạn của VN
- Đầu tư sai và kém hiệu quả. Bên cạnh các khoản đầu tư kém hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước, chúng tôi cho rằng ngay cả đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam trong các năm gần đây cũng có chất lượng và hiệu quả thấp. Một khối lượng FDI khổng lồ đang tập trung vào các khu vực phi sản xuất và phi thương mại quốc tế (non-tradable sectors), do vậy sẽ là gánh nặng gây ra thâm hụt thương mại ngày càng lớn trong tương lai, đồng thời ít có đóng góp trong việc nâng cao năng suất và hiệu quả của nền kinh tế.
- Thiếu nguồn lực cần thiết để tăng trưởng cao và bền vững. Sự thiếu hụt và yếu kém về cơ sở hạ tầng, năng lượng, kiến thức khoa học công nghệ và nhân lực trình độ cao tiếp tục là những nút cố chai cản trở tăng trưởng trung hạn và dài hạn của Việt Nam. Ngay cả khi dư thừa vốn, các doanh nghiệp lớn của Việt Nam cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc đầu tư để dịch chuyển từ các ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động (labour-intensive) sang các ngành sản xuất sử dụng nhiều vốn (capital-intensive) và có giá trị gia tăng cao. Chính vì vậy, họ chọn một con đường phát triển ngắn hạn hơn nhiều, đó là đầu cơ vào bất động sản và chứng khoán.
- Sự yếu kém của thể chế kinh tế. Cùng với việc gia nhập WTO, môi trường kinh doanh tại Việt Nam đã có rất nhiều cải thiện, tuy nhiên rõ ràng còn rất việc phải làm. Theo báo cáo môi trường kinh doanh mới nhất của Ngân hàng thế giới, Việt Nam được xếp thứ 92 trong tổng số 181 quốc gia và vùng lãnh thổ về mức độ thuận lợi kinh doanh. Trong thời gian tới, hai hướng cải cách đầy khó khăn nhưng không thể né tránh là khu vực doanh nghiệp nhà nước và khu vực tài chính-ngân hàng.
Tóm lại, bức tranh tăng trưởng kinh tế về trung và dài hạn của Việt Nam đang bộc lộ một số khó khăn nghiêm trọng. Dù vậy, kinh tế Việt Nam vẫn có những tiềm năng to lớn để thành công. Vẫn rất nhiều tiềm năng để kinh tế Việt Nam trở thành một con hổ mới của Đông Á.
Vấn đề là làm thế nào để biến tiềm năng đó thành kết quả thực tế? Và trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp lớn cần có những đối phó phù hợp như thế nào về chiến lược kinh doanh?
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Bị sức ép trên thương trường, doanh nghiệp cần tạo lợi thế cạnh tranh mới, hay khi cơ hội mới xuất hiện, doanh nghiệp muốn mở rộng kinh doanh, thay đổi hướng đầu tư… Những yếu tố này có thể là động cơ để thực hiện việc mua bán và sáp nhập (M&A).
Trước khi diễn ra hội nghị cấp cao Nhóm các nước công nghiệp phát triển và những nền kinh tế đang nổi (G20) tại Oasinhtơn ngày 15/11, có nguồn tin cho rằng các ngân hàng trung ương của những nước lớn có thể phối hợp thực hiện đợt cắt giảm lãi suất mới, nhằm ngăn chặn suy thoái kinh tế toàn cầu.
Với bối cảnh thị trường Việt Nam thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài hơn bao giờ hết như hiện nay, sự chuẩn bị nội lực của các DN trong nước nhằm tranh thủ tối đa sự tập trung của nhà đầu tư là một trong những điều kiện tiên quyết để phát triển và tăng lợi thế cạnh tranh. Một trong những ưu thế cần phải được tận dụng chính là tài chính DN (TCDN). Tuy nhiên, đối với nhiều nhà đầu tư, tài chính DN có thực sự minh bạch như các bản báo cáo là một câu hỏi không hề dễ trả lời.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.