Hội Các nhà quản trị doanh nghiệp Việt Nam (VACD), vừa có kiến nghị gửi Thủ tướng Chính phủ về những giải pháp nhằm ứng phó với lạm phát.
Trong kiến nghị, VACD chỉ tập trung vào những vấn đề cụ thể của quản trị doanh nghiệp, không đi vào những vấn chung cũng như không lặp lại những giải pháp đã được các cơ quan Nhà nước và các tổ chức quốc tế đề xuất.
Theo đánh giá của VACD, việc thực thi 8 nhóm giải pháp của Chính phủ đã có những tác dụng nhất định, song tình hình lạm phát vẫn còn diễn biến phức tạp, cán cân thương mại vẫn thâm hụt, nhiều xí nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản…
Tuy nhiên, “lạm phát cũng có những mặt tích cực nhất định. Nó là cơ hội để chúng ta thực hiện những giải pháp trung và dài hạn mà trong những điều kiện khác chúng ta không thấy rõ và không đủ quyết tâm để thực hiện”, TS. Hàn Mạnh Tiến, Chủ tịch VACD nhìn nhận.
Ông Tiến cũng cho biết: “Trong kiến nghị, VACD chỉ tập trung chủ yếu vào những vấn đề cụ thể của quản trị và quản trị doanh nghiệp, không đi vào những vấn đề chung, cũng như không lặp lại những giải pháp đã được các cơ quan Nhà nước và các tổ chức quốc tế đề xuất”.
Theo đó, thứ nhất, trong ngắn hạn, cần đặc biệt quan tâm tới việc tạo dựng lòng tin. Để thực hiện được điều này, VACD kiến nghị Chính phủ cần thực hiện nguyên tắc quyền hạn đi liền với trách nhiệm cá nhân, song song với việc minh bạch hóa tối đa để thể hiện quan điểm “nói đi đôi với làm’. Bên cạnh đó, cần kiểm soát chặt chẽ việc phát ngôn của các cơ quan và quan chức Nhà nước để tránh gây tâm lý hoài nghi của dân chúng trong những quyết định quan trọng.
Thứ hai, thiết lập một cơ chế có thể phản ứng nhanh và chuẩn xác trước các vướng mắc trong lạm phát của doanh nghiệp. Việc thành lập một tổ đặc nhiệm ở Văn phòng Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương trọng điểm với biên chế gọn nhẹ nhưng có thẩm quyền là cần thiết. Đơn vị này sẽ phối hợp với các hội và hiệp hội nghề nghiệp để điều tra nhanh cũng như đề xuất xử lý kịp thời các vướng mắc của doanh nghiệp.
Thứ ba, sớm thực hiện việc miễn, giảm hoặc giãn thuế cho một số mặt hàng, ngành nghề đang gặp khó khăn. Bên cạnh đó, cũng nên dừng hoặc bãi bỏ việc tạm thu thuế thu nhập doanh nghiệp cho tất cả các doanh nghiệp. Thứ tư, giao các cán bộ, ngành liên quan rà soát lại các văn bản quy phạm pháp luật, cũng như các hướng dẫn chi tiết xử lý các tình huống phát sinh trong và sau lạm phát.
Đồng thời, triển khai cụ thể và quyết liệt các biện pháp an sinh xã hội thông qua hình thức trợ cấp bằng tiền cho những người có thu nhập quá thấp, có vị thế dễ bị tổn thương do lạm phát để vừa đảm bảo ổn định xã hội vừa kích cầu cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Thứ năm, về trung và dài hạn, nên tập trung xây dựng quy trình và tiêu chuẩn thẩm định, phê duyệt, giám sát, theo dõi, đánh giá các dự án đầu tư công. Hiện nay, việc phân cấp rất mạnh cho các địa phương, bộ ngành, tập đoàn nhưng không có các tiêu chuẩn và quy trình cần thiết đã dẫn tới tình trạng buông lỏng quản lý, các địa phương, bộ ngành, tập đoàn đầu tư tràn lan nhưng manh mún và kém hiệu quả.
Đồng thời, Chính phủ cũng cần cho rà soát lại các chiến lược, quy hoạch của các ngành, các địa phương, đảm bảo luận cứ khoa học, tính dự báo và tính khả thi của các đề án này. Trên cơ sở đó, xây dựng một chương trình đầu tư công ít nhất cho giai đoạn 5 năm nhằm hiện thực hóa các mục tiêu, chiến lược của quốc gia.
Thứ sáu, liên quan đến các tập đoàn kinh tế Nhà nước, cần sử dụng kiểm toán độc lập để xem hiệu quả đầu tư và kinh doanh của các tập đoàn này. Ngoài ra, cũng cần thuê các tổ chức đánh giá hiện trạng, năng lực quản trị để có kế hoạch đào tạo, nâng cao năng lực quản lý cho các ủy viên và các quản trị viên cao cấp.
Xem xét lại một cách nghiêm túc quy trình, tiêu chuẩn bổ nhiệm, miễn nhiệm các lãnh đạo chủ chốt trong các đơn vị này. Từ đó, đánh giá lại một cách có cơ sở những quan điểm cơ bản về tập đoàn kinh tế và tập đoàn kinh tế Nhà nước.
Thứ bảy, về công tác thông tin, thống kê, Chính phủ cần khẩn trương nghiên cứu, lập đề án xây dựng hệ thống thông tin - dữ liệu quốc gia đủ năng lực để đáp ứng các thông tin cần thiết cho việc điều hành guồng máy kinh tế, cho nghiên cứu và hoạch định chính sách.
Thứ tám, liên quan tới điều hành kinh tế vĩ mô, cần nghiên cứu cải tổ Ngân hàng Nhà nước theo hướng độc lập với Chính phủ.
Chính phủ cũng nên cho triển khai ngay các nghiên cứu cần thiết cho việc tái cơ cấu nền kinh tế và thay đổi mô hình phát triển để có cơ sở hoạch định và điều chỉnh chính sách trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Cuối cùng, cần sớm ban hành luật về hội nhằm tăng cường sự tham gia và nâng cao vai trò từ vấn, phản biện của các hội, hiệp hội nghề nghiệp, các tổ chức xã hội dân sự trong quản lý kinh tế - xã hội, tạo cơ sở cho sự đồng thuận, phát triển ổn định và bền vững của đất nước.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Kinh tế Việt Nam đang hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới, các doanh nghiệp sẽ càng ngày càng va chạm nhiều với các vụ kiện, trước các rào cản của nước ngoài. Do đó việc trang bị kiến thức luật pháp quốc tế, kinh nghiệm tham gia và xử lý các vụ tranh chấp là rất cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp, mỗi hiệp hội ngành hàng.
Standard Chartered nhận xét hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng mạnh trong năm nay bất chấp sự bất ổn của nền kinh tế toàn cầu. Con số FDI cam kết mạnh mẽ cũng cho thấy niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào triển vọng của Việt Nam như là một trung tâm sản xuất cũng như trung tâm nguồn lực trong khu vực.
Bảy tháng năm 2008, cả nước xuất khẩu 36,876 tỷ USD, tăng 37,6% so với cùng kỳ và là mức tăng kỷ lục trong nhiều năm qua. Nhiều mặt hàng xuất khẩu đạt kim ngạch cao hơn như dầu thô, gạo, dệt may, giầy dép, đá quý và kim loại quý, thủy hải sản, đồ gỗ…
Các tỉnh Tây Nguyên đã và đang triển khai xây dựng hàng chục công trình thủy điện, với mục tiêu đến năm 2010 đạt tổng công suất trên 5.000MW, bằng 1/3 tổng công suất hiện có của hệ thống điện quốc gia.
Hội thảo "Hợp tác Nhà nước và Tư nhân: Kinh nghiệm của Nhật Bản và sự lựa chọn chính sách đối với Việt Nam," diễn ra ngày 20/8/2008 tại Hà Nội, là diễn đàn để các cơ quan chính phủ và doanh nghiệp trao đổi về hiện trạng chính sách cũng như khả năng áp dụng mô hình này ở Việt Nam.
Cách đây hơn hai năm, khi những vòng đàm phán về việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) gần đi đến hồi kết, các nhà hoạch định chính sách đã phải đối diện với một vấn đề then chốt là làm thế nào tách biệt được cơ chế quản lý hành chính của nhà nước khỏi quản lý kinh doanh của doanh nghiệp.
Đã từ lâu nay, trong ngành giấy vẫn diễn ra một nghịch lý là trong khi hàng năm nước ta xuất khẩu hàng trăm nghìn tấn mảnh gỗ nguyên liệu giấy mang lại giá trị thấp, thì lại phải bỏ ra một lượng lớn nguồn ngoại tệ để nhập khẩu bột giấy và giấy.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.