Đã đến lúc Ngân hàng thực hiện các giải pháp hạ lãi suất cho vay để chia sẻ một phần khó khăn với khách hàng, giúp các DN tiếp cận được nguồn vốn với chi phí thấp hơn.
Đến cuối tuần qua (15/8), hầu hết các mức LS tiền gửi các kỳ hạn của NH đã giảm, nhưng LS cho vay VND (áp dụng cho cả ngắn hạn, trung và dài hạn) nhìn chung vẫn chưa giảm hoặc nếu có thì ở mức giảm rất nhẹ. LS cho vay phổ biến của Ngân hàng Thương mại (NHTM) Nhà nước là 20,5%/năm, mức thấp nhất là 19,5%-19,8%/năm, cao nhất là 21%/năm.
Mặt bằng LS phổ biến của các NHTM CP vẫn là 21%/năm. Các NH đều ý thức LS cho vay cao đang khiến nhiều DN khó khăn hơn trong hoạt động SXKD, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ NH. Giám đốc một chi nhánh NH Công Thương nói: “LS cao quá, DN không chịu nổi chi phí trả lãi ngân hàng, nếu để tình hình này kéo dài thì có nguy cơ DN mất khả năng trả nợ, kinh tế đi xuống, thiểu phát xuất hiện, hậu quả NH sẽ phải trả giá vì nợ xấu tăng cao. Đây là một vòng xoáy mà người chịu hậu quả cuối cùng sẽ là NH”.
Cả NH và khách hàng không ai muốn LS cao như hiện nay, nhưng vì sao LS cho vay chưa hạ?
Ngân hàng càng cho vay càng lỗ?
Nếu như DN đang than thở là giá nguyên vật liệu đầu vào tăng mà giá bán không thể tăng tương ứng thì NH cũng vậy. Theo nhiều NH, hiện khoảng 60%-70% nguồn vốn huy động của các NH có kỳ hạn từ 6 tháng trở xuống. Mức LS bình quân của loại tiền gửi này ở các NHTM NN khoảng 17,5%/năm, của các NHTM CP khoảng 18%/năm. Với chi phí LS đầu vào như vậy, cộng với các chi phí (dự trữ bắt buộc, quản lý, bảo hiểm, dự phòng rủi ro…), LS cho vay ở mức trần 21%/năm thì NH gần như hòa vốn.
Ngoài việc cho vay không có lợi nhuận, các NH còn rất e ngại khả năng trả nợ của khách hàng. Giá nguyên vật liệu tăng cao trong 6 tháng đầu năm, cộng thêm sức tiêu dùng của người dân giảm sút đã khiến tình hình SXKD của các DN, đặc biệt là các DN vừa và nhỏ càng thêm khó khăn.
Có hai cách ứng xử của DN đối với LS cho vay hiện nay. Những DN có tình hình tài chính, quản trị tốt thì cố gắng giảm vay NH và tự lo vốn bằng mọi biện pháp, trong đó có cả việc cắt giảm các dự án chưa cần thiết, giảm chi phí nhân công, chi phí quản lý...Nhưng nhiều DN trong tình trạng khó khăn, bế tắc lại sẵn sàng vay NH với mức LS cao, kể cả hơn 21%.
Một số lãnh đạo NHTM than thở: “DN làm ăn tốt ngân hàng muốn cho vay thì họ lại hạn chế vay, những khách hàng không đủ tín nhiệm thì lại xin vay bằng mọi giá”.
Tổng giám đốc một NHTMCP nói: “NH đang phải đối mặt với tình trạng nợ quá hạn gia tăng vì khách hàng hoặc không có khả năng trả nợ hoặc có tiền cũng không muốn trả vì mức LS vay cũ chỉ tối đa 12%/năm, nếu bị phạt nợ quá hạn vẫn thấp hơn LS vay mới hiện nay. Bên cạnh đó, trả nợ xong lại khó vay vốn trở lại. Nếu NH phát mại tài sản bảo đảm cũng rất khó khăn, có khi phải 6 tháng mới xử lý được”.
Trước bối cảnh khó khăn của nền kinh tế, DN và hoạt động NH những tháng đầu năm, phần lớn các HĐQT các NHTMCP xác định mục tiêu an toàn, bảo toàn nguồn vốn được đặt lên đầu tiên trong năm 2008. Vì vậy, những tháng gần đây, không cần NHNN nhắc nhở về hạn mức tăng tín dụng 30%, NH nào cũng chỉ tập trung vào việc thu hồi nợ hơn là hoạt động cho vay.
Bên cạnh đó, các NH còn đang phảit đối mặt với hiện trạng tốc độ tăng nguồn vốn huy động thấp hơn nhiều so tốc độ tăng dư nợ cho vay. Tại Hà Nội, đến cuối tháng 7/2008, nguồn vốn huy động (VND&ngoại tệ) chỉ tăng 0,76%, trong khi dư nợ tăng 19,5% so cuối năm 2007. Riêng nguồn vốn VND cùng thời điểm giảm 8% trong khi dư nợ VND tăng 13,7%.
Nguồn vốn huy động được, các NH chủ yếu cho vay các khách hàng truyền thống (quan hệ lâu năm có uy tín, sử dụng dịch vụ trọn gói và mua bảo hiểm của NH…) nên những nhu cầu vay mới gần như không được đáp ứng. Đến nay, tình hình vốn huy động VND của hệ thống NH tuy đã được cải thiện nhưng vẫn ở mức khiêm tốn.
Đây là lý do tại sao các NH vẫn rất thận trọng trong việc cho vay ra. LS cao là một rào cản kỹ thuật để buộc khách hàng phải giảm bớt nhu cầu vay ngân hàng.
Đã đến lúc nên hạ LS cho vay
Nền kinh tế đã có những dấu hiệu hồi phục, nguồn vốn huy động tháng 7/2008 đã tăng nhẹ so với tháng 6. Mặt bằng LS tiền gửi đã giảm. Tâm lý người gửi tiền khá ổn định nên số tiền gửi có kỳ hạn dài hơn tăng đáng kể trong thời gian gần đây. Nếu CPI tháng 8 không tăng quá cao, nhiều khả năng một số NH sẽ dư vốn VND.
Đây là những tiền đề để các NH tính toán khả năng hạ LS cho vay một cách đồng loạt. Hiện tại, đối với các khách hàng tốt, hầu hết các NH cũng không cho vay đến 21%/năm. Nhưng số khách hàng được hưởng sự ưu đãi này là rất ít. Nhiều DN và khách hàng có nhu cầu vẫn không vay được vốn NH cho dù chấp nhận LS 21%/năm.
Vì vậy, có ý kiến cho rằng nếu LS giảm mà NH vẫn hạn chế cho vay ra thì hành động giảm LS này chỉ tác dụng làm giảm nhẹ chi phí tài chính của những DN đang có quan hệ tín dụng với NH, chủ yếu là các DNNN mà chưa có tác động tích cực thực sự đến nền kinh tế.
Thời điểm này, có thể nhiều NH đang chờ đợi diễn biến chỉ số CPI và diễn biến nguồn tiền gửi tháng 8/2008 để quyết định có hạ LS cho vay VND hay không.
Giám đốc một chi nhánh NH NN&PTNT nói: “Chúng tôi đã giảm LS cho vay, chỉ 19,2%/năm. Hầu hết DN có tỷ suất lợi nhuận (ROE) không quá 20%/năm, LS quá cao thì tiền đâu mà trả lãi NH. Hạ LS cho vay vừa được khách hàng cảm ơn, NH lại mở rộng được tín dụng, tránh đọng vốn”.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Theo Trưởng phòng Nghiên cứu kinh tế Viện Nghiên cứu phát triển KTXH Hà Nội, kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm có nhiều điểm nhấn, rất nhiều cái nhất, so với thời kỳ 15-16 năm gần đây (cả những cái nhất về tiêu cực và cái nhất về tích cực).
Ngày 12/8/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số: 1085/QĐ-TTg phê duyệt Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung- vùng Trung Trung Bộ từ nay đến năm 2025. Với mục tiêu phấn đấu đến năm 2025, Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung- vùng Trung Trung Bộ sẽ trở thành đầu mối trung chuyển và trung tâm giao thương, chế biến của vùng Mêkông lớn và khu vực châu Á - Thái Bình Dương
Kinh tế Việt Nam đang hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới, các doanh nghiệp sẽ càng ngày càng va chạm nhiều với các vụ kiện, trước các rào cản của nước ngoài. Do đó việc trang bị kiến thức luật pháp quốc tế, kinh nghiệm tham gia và xử lý các vụ tranh chấp là rất cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp, mỗi hiệp hội ngành hàng.
Standard Chartered nhận xét hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng mạnh trong năm nay bất chấp sự bất ổn của nền kinh tế toàn cầu. Con số FDI cam kết mạnh mẽ cũng cho thấy niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào triển vọng của Việt Nam như là một trung tâm sản xuất cũng như trung tâm nguồn lực trong khu vực.
Bảy tháng năm 2008, cả nước xuất khẩu 36,876 tỷ USD, tăng 37,6% so với cùng kỳ và là mức tăng kỷ lục trong nhiều năm qua. Nhiều mặt hàng xuất khẩu đạt kim ngạch cao hơn như dầu thô, gạo, dệt may, giầy dép, đá quý và kim loại quý, thủy hải sản, đồ gỗ…
Các tỉnh Tây Nguyên đã và đang triển khai xây dựng hàng chục công trình thủy điện, với mục tiêu đến năm 2010 đạt tổng công suất trên 5.000MW, bằng 1/3 tổng công suất hiện có của hệ thống điện quốc gia.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.