Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Thông tin thị trường Đức (10): Văn học Đức

9. Văn học.

9.1 Sự khởi đầu mới sau 1945.

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, văn học Ðức đã cố gắng để có sự khởi đầu mới. Tuy nhiên ta không thể nói đến "Giờ số 0" của văn học Ðức nếu xem xét tính liên tục trong văn chương và tiểu sử của nhiều tác giả, trong đó Thomas Mann, Gottfried Benn và Bertolt Brecht là những tác giả quan trọng nhất vào nửa đầu thế kỷ. Sự khởi đầu mới, đối với nhiều nhà văn, là cố gắng diễn tả cho được những trải nghiệm gây sốc và vô cảm - theo đúng nghĩa của từ này - từ chiến tranh và sự tàn phá, thường bằng cách quay lại những khuôn mẫu của các nhà văn nước ngoài hay nhờ vào lối tư duy của chủ nghĩa hiện sinh hoặc của truyền thống Thiên chúa giáo. Vở kịch Bên ngoài cánh cửa (1947) của Wolfgang Borchert, truyện ngắn của Heinrich mới thường được lý giải như sự lảng tránh trách nhiệm đối với những gì đã xảy ta dưới thời Quốc xã. Có thể kể ra ví dụ các vở diễn và tác phẩm văn xuôi của tác giả gốc Thụy sĩ Friedrich Durrenmatt (Cuộc viếng thăm của một bà già,1956; Những nhà vật lý, 1961) và Max Frisch (Stiller,1954; Homo Faber, 195
7; Biedermann và những kẻ đốt nhà,1958; Andorra,1961). Những tác phẩm đáng kể nhất của các tác giả Ðức được viết bởi Wolgang Koeppen (Nhà kính,1953), Heinrich Boll (Và chưa bao giờ nói một lời, 1953; Bánh mì của những năm xưa, 1955; Ván bi-a lúc chín giờ rưỡi, 1959), Siegfeied Lenz (Giờ học tiéng Ðức, 1968) và Gunter Grass (Cái trống thiếc, 1959; Mèo và Chuột, 1961; Những năm chó,1963.Ðóng vai trò trung tâm là "Nhóm 47" ,một nhóm không ổn định của các nhà văn nổi tiếng Ðức do Hans Werner Ritcher sáng lập, mà các cuộc họp hàng năm của họ (kéo dài đến năm 1967) vừa là sự kiện văn chương vừa ngày càng mang đậm màu sắc chính trị. Một số thành viên của nhóm, trong đó có nhiều tác giả nổi tiếng thời bấy giờ tự coi mình là tòa án đạo đức. Ðại diện nổi tiếng của họ -nhà văn Heinrich Boll - đã được giả thưởng Nobel về văn học năm 1972. Bên cạnh các nhà văn này, còn có một số nhà văn khác ít quan tâm đến việc giải thích thực tại xã hội , thay vào đó họ thể hiện những bức vẽ vô tư về xã hội.Trong số này có Jurgen Becker
(Những cánh đồng ,1964;những đường viền ,1968).Alexander Klurge (Những cuộc đời 1962) và Dier Wellershoff (Một ngày đẹp trời 1966)

Ðối lập lại với dòng văn học này là thể loại thơ ca hình thức ( Max Benso, Eugen Gomriger.. Trong đó các tác giả cố gắng hoàn toàn không thể hiện phần nội dung .Ở đây bản thảo ngôn ngữ trở thành văn học.

9.2.    Những năm 68.

Giữa những năm 1960 bắt đầu một thời kỳ thay đổi lớn trong xãhội không chỉ ở Cộng Hòa Liên Bang Ðức mà ở tất cả các nước Phương Tây khác. "Những cuộc bạo động sinh viên" năm 1968 đã cho thấy việc phê phán "Sự im lặng của những người cha" trước tội ác của Quốc Xã đã trở nên quá khích rõ ràng. Những xu hướng thẩm mỹ trong văn học bị quy thành những cố gắng nhằm che đậy nguyên nhân kinh te và xã hội? của cơ cấu vốn? bị coi là bất công .Nhiều tác giả tích cực hoạt động chính trị và xã hội - tuy đồng thời vẫn không cho phép mình bị lợi dụng vào các mục đích chính trị .Biểu hiện của xu hướng này là quyết định của nhiều nhà văn phản đối cuộc chiến tranh ở Việt Nam và ủng hộ chính sách mới về phương Ðông-Chính sách nhằm vượt qua cuộc đối đầu Ðông-Tây.Không kém tiêu biểu là sự tìm tòi vai trò và hình thành mới cuả văn học. Luận đề "cái chết của văn học ( Hans Magnus Enzensberger) vàMỹ học của sự phản kháng của Peter Weiss thể hiện mạnh mẽ những suy ngẫm mới này.

Thuộc về nền văn học chính trị này còn có các kịch tư liệu (Rolf Hochhuth: Người đại diện ,1963; Trong vụ việc J.Robert Oppenheimer,1964) mà về nội dung và ý đồ mang tính đảng phái và văn học của những người lao động

Người nghệ sĩ như là một tồn tại bi thảm.Bên cạnh những xu hướng kể trên , một vài nhà văn? đi theo con đường riêng và tự khẳng định là những nhà văn xuất sắc của thời đại mình. Những tác phẩm? quan trọng nhất đều miêu tả một cách nghiênm túc pha lẫn sự mỉa mai sự tồn tại của giới nghệ sĩ -"con người trí tuệ" trong thế giới nghèo nàn về tinh thần .Thái độ hoài nghi của họ được thể hiện qua cái bi lẫn cái hài trong sự thể hiện của mỗi con người.

Bên cạnh đó các nhà thơ cũng đánh dấu sự tiến bộ của mình bằng con đường thơ văn theo lối mòn của chủ nghĩa bản thể

Hoạt động văn chương . Trong khi những năm 1960 vẫn còn chứa đầy những sự khởi đầu , sự thúc đẩy và xuất phát mới mẻ ,những năm tiếp theo ngày càng có vẻ được đánh dấu bởi tình trạng cạn kiệt tiềm năng và thủ pháp nghệ thuật .Các thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn thường thiếu sự độc đáo và sắc nét đặc trưng nhu những thời kỳ trước .

9.3.    Văn học cộng hòa Dân chủ Ðức.

Trong những năm 1989 -1990 những năm kết thúc của chủ nghĩa xã hội ở Ðông Ðức đã đánh dấu một bước ngoặc sâu sắc không chỉ trong lịch sử chính trị mà cả trong lĩnh vực văn hóa. Sự kiện này đã dặc biệt tác động đến các tác giả sống ở Cộng hòa Dân chủ Ðức và họ vẫn công khai tuyên bố? sự tin tưởng của họ đối với nhà nuớc này - bất chấp cả những khiếm khuyết của nó- vẫn là quốc gia ưu việt hơn trên nước Ðức .Ngay từ đầu văn học Ðông Ðức đã phát triển khác với phương Tây .Trong cả nước chỉ truyền bá mỹ học về " Chủ Nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa " . Chính vì thế những tác phẩm sinh rra ở Cộng hòa dân chủ Ðức chủ yếu là văn học xây dựng theo sự rập khuôn tẻ nhạt thiếu sự đổi mới hình thức cũng như nội dung.Thêm vào đó hầu hết các trào lưu văn học mới? đều không được chấp nhận ở Ðông Ðức.Tuy nhiên văn học ở Cộng hòa Dân chủ Ðức vẫn có một số thành tựu nhất định như: Heiner Muller với tác phẩm"những kẻ hạ tiền lương" Christa Wolf với tác phẩm "bầu trời chia cách"suy nghĩ về Christa",. Ngay cả ở thời kỳ cuối của Cộng Hòa Dân Chủ Ðức, sự phê bình văn chương của cá nhân như Christoph Hein, Volker Braun, Ulrich? Plenzdoft hay Stefan Heym cũng bị gián đoạn và cản trở. Khác với văn học hầu hết ở các nước khác thuộc Ðông Âu do Liên Xô chi phối, văn Họa ở Cộng Hòa Dân Chu Ðức hầu hết mang tính khẳng định. Những tác phẩm văn xuôi và sân khấu đáng kể nhất của Christa Wofl và Heiner Muller- ít nhất từ giữa những năm 70 trở đi - tuy có khác về sự trung thành với đảng và lòng tin ở chủ nghĩa xã hội, nhưng mô hình một xã hội khác thực chất vẫn có gốc rễ sâu xa từ ý tưởng xã hội chủ nghĩa.

9.4.    Những trào lưu mới.

Một trong những tác giả xuất sắc của 20 năm cuối là Bottho Strauss, những truyện ngắn và tiểu thuyết của ông (chị em Marlene, 1975; Gã trai trẻ,1984) cũng như các vở kịch (Những kẻ trầm uất,1972; Những gương mặt quen,những tình cảm pha trộn, 1974; Kalldewey,Farce,1981; Công viên,1983) và những bài tiểu luận( Ðôi lứa, những khách qua đường,1981;Cư trú, nửa tỉnh, nửa mê, nửa dối trá, 1994) đã rất cố gắng nắm bắt hiện tại trong khoảnh khắc chơi vơi của nó bằng cách vay mượn những hình ảnh huyền bí của ngôn ngữ và chuỗi cảnh được dàn dựng.

Việc chấm dứt chia cách về chính trị và hệ tư tưởng ở? Châu Âu và nước Ðức vẫn còn quá gần để có thể đưa ra câu trả lời, dù chỉ là tạm thời, cho câu hỏi : việc này đã ảnh hưởng hay thay đổi như thế nào đối với văn học Ðức. Cuộc tranh luận về cuốn tiểu thuyết của Gunter Grass :Ein weites (1995) , trong đó các tác giả đánh giá, tổng kết sự thay đổi cơ bản này, đã tắt ngóm cũng nhanh như? khi nó bắt đầu bùng lên. Trong Những câu chuyện bình dị (1998) Ingo Schulze đã vẽ nên bức tranh nhiều màu sắc về những tình huống bi hài của người dân phía Ðông sau khi bức tường Berlin bị sụp đỗ. Trong tiểu thuyết ngắn Dối lừa(2000) Klaus Schlesinger đã thuật lại chi tiết câu chuyện giả định hoàn hảo về gia đình hai người đàn ông trong nước Ðức bị chia cách. Cuốn sách này một lần nữa cho thấy những sự kiện lịch sử quan trọng chỉ có thể sau một khoảng thời gian nhất định.

9.5 Những giải thưởng văn học.

Gunter Grass được nhận giải thưởng Nobel văn học 1999 vì theo viện Hàn Lâm Thụy Ðiển ông "đã vẽ nên bộ mặt bị bỏ quên của lịch sử bằng những tông màu tối nhạt" . Cũng trong những năm đó, Ông đã xuất bản tập truyện ngắn ?Thế kỷ của tôi mỗi năm mang một câu chuyện được người nghệ sĩ vẽ lại bằng một màu nước.

Năm 1999, Siegfried Lenz nhận "giải thưởng Goethe" của thành phố Frankfurt/Main; Giải thưởng "Friedrich Holderin" của thành phố Bad Homburg. Trong năm đó được trao cho Reiner Kunze, còn Arnold Stadler được tặng "giải thưởng Georg Buchner" của viện hàn lâm ngôn ngữ và thi ca Ðức. Năm 1995 giải thưởng này được trao cho nhà thơ trữ tình sinh năm 1962 tại Dresden: Durs Grunbein- người sau đó đã được bầu vào viện hàn lâm Berlin/ Branderburg năm 1999, và với sức mạnh ngôn từ của mình , đã chiếm một vị trí trong những nhà thơ hiện đại hàng đầu.

9.6. Văn chương triết học.

Triết học ở Ðức sau chiến tranh thế giới làn hai đã bị gián đoạn đột ngột và sự bất định dai dẳng không kém tiểu thuyết và thơ. Một trong những triết gia nổi tiếng nhất của thế kỷ này là Martin Heidegger(1889-1976), người đã làm nên tác phẩm nền tản của chủ nghĩa hiện sinh: Tồn tại và thời gian(1927), đã trở thành một trong những học giả gây tranh cải nhất của thời kỳ sau chiến tranh, do đôi khi thể hiện sự đồng cảm với Ðức Quốc Xã. Tuy vậy, ngay cả sau chiên Stuttgart tranh thì tiền đề hiện sinh của Heidergger vẫn cứ tiếp tục là một trào lưư rộng rãi trong triết học và tất cả các bộ môn xã hội. Các nhà triết học như : Karl Jasper, Hans-Georg Gamander, Karl Lowith hay Jean Paul Sartre ở Pháp đã phát triển những lý thuyết của họ từ sự nghiên cứu triết học hiện sinh.

Một trào lưu khác gắn với triết học thực chứng đi cùng với những tên tuổi như Ludwig Wittgenstein, Rudofl Carnap hay cả Karl Popper- bất chấp những sự khác nhau về tư duy của họ-tiếp tục phát triển đặc biệt ở các nước Anglo-Saxon. Triết học ngôn ngữ và triết học phân tích? lên ngôi nơi đây nhờ những thúc đẩy đáng kể của trào lưu này. Ðại diện có ảnh hưởng lớn nhất của những trào lưu đó ở Ðức là Woflgang Stegmuller.

Từ đầu những năm 1960 trở đi, ảnh hưởng của " trường phái Frankfurt" ở? Ðức tăng lên. Những đại diện chính của trường phái này ở Cộng Hòa Liên Bang Ðức là Theodor W. Adorno và Max Horkheiner-đều là triết gia Do thái theo truyền thống Mac-xít, đã rời khỏi nước Ðức trong thời kỳ chiến tranh. Các lý thuyết của họ có ảnh hưởng đáng kể đến phong trào sinh viêiệt nam những năm 1960. Trường phái "lý? thuyết phê phán" chống lại cả trường phái phi chính trị bảo thủ theo sau chủ nghĩa hiện thực lẫn xu hưóng của chủ nghĩa chấp nhận những quan hệ xã hội hiện tại như là quá trình diễn tiến tự nhiên.

Từ những năm 1970, triết học Ðức ngày càng tăng cường tiếp thu truyền thống Anglo-Saxon - và ngược lại những nước kia cũng thu nhận ngày càng nhiều những tư duy từ? Châu Âu lục địa. Triết học của Jugen Harbermas, người đã giảng dạy nhiều năm ở Mỹ, là biểu hiện rõ ràng của sự phát triển này. Nó thể hiện sự cố gắng kết hợp những yếu tố cơ bản của triết học phương Tây lục địa với những yếu tố cơ bản của chủ nghĩa Anglo -Saxon. Tách mình khỏi nhà bác học Niklas Luhman nhấn mạnh ý nghĩa phát triển tự trị của những hệ thống xã hội, nền khinh tế hay chính trị. Hiện nay, những cuộc tranh luận triết học ở Ðức tập trung vào vấn đề đạo lý.
 

Nguồn: sưu tầm trên internet )

  • Thông tin thị trường Đức (1): Chương I: Tổng quan về nước Đức - Điều kiện tự nhiên
  • Thông tin thị trường Đức (2): Lịch sử Đức giai đoạn đến năm 1945
  • Thông tin thị trường Đức (3): Lịch sử Đức từ năm 1945 đến nay.
  • Thông tin thị trường Đức (4): Một số thành phố và địa danh nổi tiếng ở Đức
  • Thông tin thị trường Đức (5): Một số thành phố và địa danh nổi tiếng ở Đức
  • Thông tin thị trường Đức (6): Chương II: Văn hóa và con người Đức
  • Thông tin thị trường Đức (7): Kiến trúc Đức
  • Thông tin thị trường Đức (8): Nghệ thuật tạo hình - Bảo tàng và triển lãm
  • Thông tin thị trường Đức (9): Điện ảnh và nhà hát
  • Thông tin thị trường Đức (10): Văn học Đức
  • Thông tin thị trường Đức (11): Các lễ hội và văn hóa cử chỉ của người Đức
  • Thông tin thị trường Đức (11): Hệ thống giáo dục của Đức
  • Thông tin thị trường Đức (12): Chương III: Kinh tế và các mối quan hệ Việt - Đức
  • Thông tin thị trường Đức (13): Chương IV: Những điểm cần lưu ý khi kinh doanh với người Đức
  • Thông tin thị trường Đức (14): Những điểm cần lưu ý khi kinh doanh với người Đức