"Các động thái tăng giá các mặt hàng chiến lược như than và điện cần có những bước đi thận trọng để không gây ảnh hưởng đột biến cho sản xuất và đời sống người dân".
Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng trao đổi với báo chí về vấn đề đang thu hút sự quan tâm của cả người dân và doanh nghiệp.
Bộ trưởng đánh giá như thế nào về kiến nghị tăng giá của Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản (TKV) và Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN)?
Trong năm 2009 giá điện đã được điều chỉnh tăng 8,92%. Đây là chủ trương nhất quán của Chính phủ bởi những lý do sau: Thứ nhất, để đảm bảo cân đối đầu vào đầu ra của các sản phẩm. Thứ hai, khi thực hiện cơ chế giá thị trường, một mặt góp phần nâng cao chất lượng của sản phẩm, đồng thời khuyến khích tiết kiệm của người tiêu dùng bao gồm các nhà sản xuất và các hộ sinh hoạt. Thứ ba, đảm bảo hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp phản ánh đúng hơn so với thực tế và góp phần thu hút các nhà đầu tư.
Đối với than và điện, đây là hai mặt hàng chiến lược có liên quan mật thiết đến cuộc sống của nhân dân và các doanh nghiệp. Do đó, khi tính toán đến việc tăng giá thì phải đảm bảo nguyên tắc thực hiện theo cơ chế giá thị trường, nhưng mặt khác cần phải có những bước đi thận trọng, cụ thể để không gây những biến động lớn gây ảnh hưởng đến sản xuất của các doanh nghiệp, đặc biệt là đời sống của người dân.
Trên tinh thần đó, EVN cũng có những lý do kiến nghị việc điều chỉnh giá than làm sao để phù hợp với tình hình của ngành điện. Ngược lại, TKV cũng có những kiến nghị để làm sao điều chỉnh giá than phù hợp với điều kiện khai thác và chi phí sản xuất của ngành than. Vì vậy, với kiến nghị của hai tập đoàn này, Bộ Công Thương sẽ phối hợp với Bộ Tài chính và các bộ ngành có liên quan nghiên cứu, tính toán cụ thể, chi tiết để đảm bảo nguyên tắc giá thị trường đồng thời không gây ảnh hưởng và xáo trộn lớn đến sản xuất và đời sống của nhân dân.
Theo dự kiến, trong quý 1/2010 sẽ trình Chính phủ những đề xuất các phương án khác nhau đối với giá các loại nhiên liệu, đặc biệt là giá điện và giá than. EVN đã có văn bản kiến nghị tăng giá điện theo 4 mức để phù hợp với các mức tăng giá than của TKV. Tuy nhiên, những phương án tăng giá này lại không khớp nhau. Quan điểm của Bộ trưởng về vấn đề này thế nào?
Theo tôi, tất cả các sản phẩm hàng hóa đều phụ thuộc lẫn nhau, đối với mặt hàng này thì sản phẩm A là đầu vào nhưng đối mặt hàng khác thì sản phẩm A lại là đầu ra. Vì vậy, đối với điện và than thì không thể nói đơn giản rằng giá điện tăng là do giá than tăng, ngược lại cũng không thể nói giá than tăng là do các chi phí khác trong đó có giá điện tăng. Đây là mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau.
Do đó, tính toán tăng giá điện không chỉ có việc điều chỉnh giá than mà còn rất nhiều chi phí khác và đó là nhiệm vụ đòi hỏi Bộ Công Thương cũng như Bộ Tài chính cần phối hợp chặt chẽ với nhau để tính toán và có những đề xuất phù hợp báo cáo với Thủ tướng Chính phủ.
Đối với ngành than, họ cũng có những lý do để kiến nghị với Chính phủ việc điều chỉnh giá than tăng lên theo 4 phương án. Ngành điện cũng có những lý do để phân tích rằng nếu thực hiện các phương án tăng giá than như vậy thì sẽ ảnh hưởng đến các mức độ khác nhau đến giá thành điện. Do đó, khi cân nhắc tính toán việc tăng giá cần phải thực hiện 3 yêu cầu sau:
Một, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Chính phủ về việc từng bước điều chỉnh giá của sản phẩm theo hướng cơ chế giá thị trường; Hai, điều chỉnh như thế nào để không gây xáo trộn và ảnh hưởng lớn đến sản xuất và sinh hoạt của nhân dân; Ba, điều chỉnh giá thành, giá bán phải dựa trên những tính toán cụ thể, có cơ sở và hợp lý về chi phí giá thành, chi phí sản xuất, lợi nhuận và từ đó dẫn đến giá sản phẩm hợp lý.
Giá than đã thị trường hóa cho các ngành như giấy, hóa chất, phân bón, xi măng và đều có lộ trình “mềm mại” hơn, mỗi năm tăng 2 – 3 đợt và mỗi đợt chỉ tăng 20 – 30%. Trong khi đó, giá than tăng cho điện thấp nhất là 10% và cao nhất lên tới 138%. Với mức tăng như vậy thì điện sẽ phải tăng từ 6,2 - 13,81%. Vậy, đây có phải là mức tăng đột biến?
Trong việc thực hiện cơ chế giá thị trường của sản phẩm than đối với các sản phẩm khác nhau thì thời gian vừa qua có một thực tế là việc điều chỉnh giá than cho các hộ tiêu thụ khác như phân bón, xi măng, sản xuất vật liệu xây dựng thì được điều chỉnh linh hoạt, dần dần từng bước và mức chênh lệch giá than cung cấp cho các sản phẩm này so với giá thị trường không lớn và không gây nhiều xáo trộn cho các ngành này.
Đối với ngành điện, giá than đã được duy trì ở mức thấp trong một thời gian dài, nên điều chỉnh ngay giá than cung cấp cho điện theo đề xuất của ngành than thì đó là mức tăng tương đối lớn và nếu tính toán không cẩn trọng thì sẽ tác động và ảnh hưởng không nhỏ đến chi phí giá thành điện và từ đó ảnh hưởng đến chi phí cho sản xuất của toàn bộ nền kinh tế quốc dân cũng như cuộc sống của người dân. Vì vậy, điều chỉnh giá than cho ngành điện cần phải tính toán linh hoạt và thận trọng.
Theo kết quả lấy phiếu tín nhiệm các chức danh, cán bộ chủ chốt do Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội công bố chiều 4/7, ông Nguyễn Đình Đức, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội là người có số phiếu “tín nhiệm cao” ít nhất trong số 18 cán bộ lãnh đạo Hà Nội, với 27 phiếu. Ông Đức cũng là người có số phiếu “tín nhiệm thấp” nhiều nhất với 23 phiếu.
Trong một cuộc trò chuyện với các cán bộ, nhân viên nữ công tác tại Bộ Ngoại giao, bà Tôn Nữ Thị Ninh đã chia sẻ những bài học kinh nghiệm của bản thân trong phát huy thế mạnh của nhà ngoại giao nữ.
Tại hội thảo chuyên đề về chính sách tiền tệ và lạm phát mục tiêu cuối tuần qua, ông Nguyễn Đức Hưởng, Phó chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank), đưa ra một quan điểm trái chiều.
Tại cuộc họp báo của Văn phòng Quốc hội về kỳ họp thứ 5, các câu hỏi chuyển tới Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc chủ yếu tập trung vào nội dung lấy phiếu tín nhiệm mà Quốc hội dự kiến sẽ dành khoảng 3 ngày thực hiện công việc này.
Ngày 16/5, tại buổi họp báo về 2 dự án Tổ hợp bauxit-alumin (nhôm) Lâm Đồng và dự án alumin Nhân Cơ (Đăk Nông), TS Nguyễn Tiến Chỉnh - Trưởng Ban Khoa học công nghệ và Chiến lược phát triển (thuộc Vinacomin) khẳng định, 2 dự án có hiệu quả về kinh tế. Theo tính toán sẽ nộp ngân sách 400 tỷ đồng/năm.
Với những kết quả khá khả quan của nền kinh tế vào thời điểm cuối năm của VN đã gây ra rất nhiều bất ngờ với các chuyên gia về kinh tế trong và ngoài nước. Tuy nhiên, để hướng đến thị trường nội địa tại VN vẫn là bài toán của rất nhiều DN VN. Trao đổi với DĐDN, chuyên gia kinh tế Trần Sĩ Chương cho rằng, các DN nên xây dựng chiến lược trước khi thực sự bắt tay vào đầu tư.
Vừa trở về từ chuyến thám hiểm Nam Cực, ông Lê Tuấn – Chủ tịch Hội đồng quản trị Cty VC Invest, chia sẻ những cảm nghĩ của mình về hành trình đầy thách thức của đoàn thám hiểm cũng như trách nhiệm của doanh nhân và doanh nghiệp trong vấn đề môi trường và biến đổi khí hậu.
Ông Võ Trí Thành – Phó viện Trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cho rằng, bài học về ổn định kinh tế vĩ mô sẽ tiếp tục phải được coi trọng trong năm 2010.
Vừa qua, cả tập đoàn Than – khoáng sản và tập đoàn Điện lực Việt Nam đều đã gửi văn bản tới bộ Tài chính đề nghị tăng giá bán than, bán điện trong năm 2010. Bộ Tài chính đang phối hợp với các bộ liên quan để đánh giá các đề nghị này và trình Chính phủ hướng điều chỉnh giá bán sản phẩm của các tập đoàn trên.
Cuối tuần qua, tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, đã diễn ra hội thảo nâng cao năng lực và phát triển hoa Đà Lạt – Lâm Đồng. Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online có cuộc trao đổi ngắn với tiến sĩ Phạm S, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ, Chủ tịch hội nhà vườn tỉnh Lâm Đồng, về thực trạng và giải pháp phát triển ngành sản xuất hoa, một trong những thế mạnh của Lâm Đồng.
Ba năm gia nhập WTO, với những cuộc cạnh tranh khốc liệt hơn, cũng như những cơ hội rộng mở hơn; Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu dẫn tới rất nhiều khó khăn nhưng cũng chính là cơ hội lớn để các DN VN cũng như nền kinh tế đổi mới, tái cấu trúc.
Xúc tiến thương mại thị trường nội địa không chỉ là chủ trương của Đảng và Nhà nước, chương trình còn được DN đưa vào kế hoạch lớn trong năm 2010 và những năm tiếp theo. Trao đổi với DĐDN, không chỉ có DN, ngay cả chuyên gia kinh tế cũng khẳng định: thị trường nội địa không chỉ là hậu phương lớn, đây còn là một mặt trận lắm thử thách nhưng cũng đầy vinh quang.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.